Phan Văn Song
Ngày
08/06/2014, trang web của Bộ Ngoại Giao Trung Quốc đăng bài “Giàn khoan 981
tiến hành hoạt động tác nghiệp: Hành vi khiêu khích của Việt Nam và
lập trường của Trung Quốc”[1] nhằm biện hộ cho hành động ngang ngược của
mình đồng thời vu cáo Việt Nam trước công luận thế giới. Bài viết đó đưa ra nhiều
luận điểm sai trái, nhưng trước mắt chúng tôi chỉ tập trung phân tích luận điểm
chính trong mục III cho rằng khu vực đặt giàn khoan không thuộc vùng đặc quyền
kinh tế (EEZ) và thềm lục địa (CS) của VN.
Cụ thể là theo
Bộ Ngoại giao TQ “Giữa quần đảo Tây Sa của Trung Quốc và bờ biển
Việt Nam tồn tại vấn đề phân định ranh giới, cho đến thời điểm này,
hai bên vẫn chưa phân định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế và thềm
lục địa tại vùng biển này. Hai bên đều có quyền đưa ra chủ trương về
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa theo Công ước Liên Hợp Quốc
về Luật Biển năm 1982. Song, bất cứ phân định ranh giới theo nguyên tắc
gì, vùng biển này đều không thể trở thành vùng đặc quyền kinh tế
và thềm lục địa của Việt Nam.”
Mặc dù Việt Nam có nhiều bằng chứng lịch sử và pháp lý để chứng
minh chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa (mà TQ gọi là Tây Sa) nhưng để thấy lập
luận của Bộ Ngoại giao TQ sai trái, bất chấp luật pháp và tập quán quốc tế đến
mức nào tạm thời thử giả định quần đảo Hoàng Sa (HS) là của TQ như họ nói. Sau
đó, thử xét việc phân giới giữa HS và bờ biển VN theo luật lệ quốc tế xem có
đúng là dù “phân định ranh giới theo nguyên tắc gì, vùng biển này
đều không thể trở thành vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của
Việt Nam” hay
không.
Cơ sở cho việc
phân định sẽ là các điều khoản liên quan trong Công ước LHQ về luật biển
(UNCLOS) mà cả TQ và VN đều là thành viên cũng như các án lệ quốc tế có liên
quan.
Cơ sở từ
UNCLOS là Điều 74 [83], đoạn 1 quy định:
“Việc phân định
ranh giới vùng đặc quyền kinh tế [thềm lục địa] giữa các quốc gia có bờ biển tiếp
liền hay đối diện nhau được thực hiện bằng con đường thỏa thuận theo đúng với
pháp luật quốc tế như đã nêu ở Điều 38 của Quy chế Tòa án quốc tế để đi đến một giải pháp công bằng (người viết nhấn mạnh).”
Để đi đến một
giải pháp công bằng theo quy định này phải xét đến nhiều yếu tố, điều kiện cụ
thể liên quan đến độ dài và hình dạng bờ biển, vị trí và tính chất các đảo, vấn
đề kinh tế-xã hội, an ninh, tài nguyên… Tập quán quốc tế và nhiều án lệ từ trước
tới nay thường dùng độ dài bờ biển tương ứng làm tiêu chuẩn chính để kiểm tra
và điều chỉnh cho tính công bằng. Theo đó, đường phân giới thường là trung tuyến
[cách đều] có điều chỉnh theo tỉ lệ thích hợp dựa trên độ dài hai bờ biển tương
ứng (tỉ lệ khoảng cách từ điểm trên đường phân giới tới điểm cơ sở của đảo và tới
điểm cơ sở của bờ biển đất liền bằng tỉ lệ điều chỉnh) và sau đó có thể tinh chỉnh
theo các yếu tố thích đáng khác hay đơn giản hóa cho dễ thực hiện. Do độ dài bờ
biển đất liền nói chung lớn nhiều lần so với độ dài bờ biển các đảo nhỏ nên tỉ
lệ này thường nghiêng về bờ biển đất liền.
Thông lệ quốc
tế cho ta nhiều ví dụ về việc điều này (các đảo chỉ được cho một phần hiệu lực
hoặc thậm chí không có được hiệu lực) trong các hiệp định phân giới biển giữa
Indonesia và Singapore, Iran và Qatar, Bahrain và Saudi Arabia, Iran và the
United Arab Emirates, Canada và Denmark (Greenland).[2] Đặc biệt, hiệp định phân giới vịnh Bắc Bộ
năm 2000, chính TQ cũng thỏa thuận với VN chỉ cho đảo Bạch Long Vĩ của VN một
phần tư hiệu lực. (Xem H.1)
H.1: Đảo Bạch Long Vĩ được hưởng khoảng ¼ hiệu lực (tỉ lệ 15
hl:55hl ≈ 1:3,7)
Đối với các vụ
đã đưa ra toà án quốc tế xảy ra trước UNCLOS hoặc trước khi UNCLOS có hiệu lực
thì cũng cho ta nhiều ví dụ. Vụ Tunisia - Libya năm 1982 thì đảo Kerkennah (180
km², 15 000 dân) chỉ được cho một phần hiệu lực do có kích thước nhỏ so với bờ
biển của Lybya. Vụ Libya - Malta năm 1985, đảo chính của Malta (122 km², 350
000 dân) cũng chỉ được cho nửa hiệu lực. Vụ Pháp - Anh năm 1977, trong 48 đảo/đá
của quần đảo Scilly thì trọng tài chỉ cho 6 đảo có người ở phân nửa hiệu lực và
đặc biệt là các đảo/đá nằm sai phía của trung tuyến không ảnh hưởng đến việc
phân giới... Đặc biệt, vụ Nicaragua - Colombia sau khi UNCLOS có hiệu lực, mới
được phân xử vào năm 2012 khá tương tự với trường hợp HS của VN thì Tòa trọng
tài dùng tỉ lệ 1:3[3] (xem H.2). Tuy nhiên, trước nhất lưu ý rằng
trong vụ này quần đảo San
Andrés, Providencia và Santa hoàn toàn thuộc Colombia, không có vấn đề tranh chấp chủ
quyền. Hơn nữa, đó là một quần đảo lớn có diện tích đất tổng cộng khoảng 52,5
km² và cư dân tại chỗ hơn 75 ngàn người.[4] Dù vậy, chỉ các đảo lớn thỏa đúng định
nghĩa ở điều 121 UNCLOS như Providencia / Santa Catalina (18 km²), San Andrés
(26 km²), Albuquerque mới được Tòa trọng tài xem xét tới EEZ với tư cách từng đảo
riêng. Các điểm cơ sở đều nằm trên các đảo này, không có điểm cơ sở nào trên
các thể địa lí không phải là đảo theo nghĩa của UNCLOS như bãi Quitasueño hoặc
đảo [đá] Serrana… Hoàn toàn không có đường cơ sở thẳng chung lạ lùng như TQ tự
vẽ cho HS để làm cơ sở cho việc phân định ranh giới biển. Ngay cả trong vụ
Qatar – Bahrain năm 2002, dù Bahrain trên thực tế là một quần đảo vốn được phép
có đường cơ sở thẳng theo UNCLOS[5] nhưng tòa vẫn không chấp nhập đường cơ sở thẳng
nối các điểm ngoài cùng của các đảo đá của quần đảo. Lí do là vì Bahrain đã
không đưa vào hồ sơ của mình.
Trong khi đó,
HS có chủ quyền đang tranh chấp (thuộc VN nhưng đang bị TQ kiểm soát) chỉ gồm
những đảo/ đá nhỏ rải rác với diện tích đất tổng cộng chỉ khoảng 7,75 km² (bé
hơn quần đảo San
Andrés, Providencia và Santa khoảng 7 lần) còn cư dân thì chỉ độ 1 000 người do TQ đưa tới để thể hiện chủ
quyền như chính Tiểu Kiệt (Xiao Jie), Thị trưởng Tam Sa thú nhận "Ở đây
không có đất trồng trọt. Mục tiêu chính là để bảo vệ chủ quyền trên biển của đất
nước chúng tôi."[6] Đặc biệt lưu ý rằng TQ không phải là nước
quần đảo và trong quần đảo HS may ra chỉ có đảo Phú Lâm mới có thể là đảo không
phải đảo đá theo điều 121 UNCLOS[7].
Như vậy, ngay cả khi giả định TQ có chủ quyền đối với HS là đúng thì so với những
điều vừa trình bày, khó
có thể có tòa án quốc tế nào chấp nhận đường cơ sở thẳng mà TQ tự vẽ cho HS. Do
đó, dù vị trí giàn khoan có gần với đường đó bao nhiêu cũng đều vô nghĩa.
H. 2: Đường phân giới (màu đỏ) giữa quần đảo San Andrés,
Providencia và Santa và Nicaragua được điều chỉnh theo tỉ lệ 1:3 và được đơn giản
hoá chứ không phải là trung tuyến [cách đều]
Hai đảo [đá] Quitasueño và Serrana chỉ được hưởng lãnh hải 12 hải
lí
Nếu vận dụng
luật pháp và thông lệ quốc tế như vừa trình bày vào từng đảo cụ thể thì cũng chẳng
cải thiện thêm điều gì về giá trị của tuyên bố nói trên của TQ. Trước nhất, hãy
xét đảo Tri Tôn là đảo gần giàn khoan nhất. Theo những nghiên cứu về địa pháp
lí thì đảo Tri Tôn không thể là một đảo theo điều 121 UNCLOS mà chỉ là đảo đá.
Do đó, nó chỉ có lãnh hải 12 hải lí, không được hưởng EEZ lẫn thềm lục địa. Do
đó, dù giàn khoan 981 ở gần đảo Tri Tôn (17 hải lí và 25 hải lí), nó vẫn nằm
ngoài vùng biển mà đảo này có thể được hưởng theo UNCLOS, tức là vẫn nằm trong
EEZ của VN (xem H.3)
Ngoài đảo này
ra, trong quần đảo HS chỉ có đảo Phú Lâm với diện tích khoảng 2,13 km² (tính
luôn phần TQ mới mở rộng thêm) là có khả năng tạm coi là một đảo theo UNCLOS
như đã nêu. Tuy nhiên, nếu chú ý tới tỉ lệ khoảng cách từ vị trí giàn khoan 981
tới bờ biển VN và tới đảo này là 103 hl:132 hl (≈1:1,3) và 88 hl:153 hl
(≈1:1,74) thì hai tỉ lệ này quá lớn so với tỉ lệ 1:3 trong vụ Nicaragua và
Colombia vừa nêu. Đặc biệt 2 tỉ lệ này cũng lớn hơn nhiều so tỉ lệ điều chỉnh
15 hl:55 hl (≈1:3.7)[8] dành cho đảo Bạch Long Vĩ (có diện tích
tương đương với Phú Lâm và nhất là thỏa mãn chế độ đảo của theo điều 121
UNCLOS) mà VN và TQ đã thoả thuận năm 2000. [9] Ngoài ra, đáng lưu ý rằng đảo Phú Lâm
không có nước ngọt, phải nhờ vào việc tích trữ nước mưa và nước ngọt đưa từ Hải
Nam tới để sinh hoạt[10] cùng với
điều kiện đất trồng thiếu thốn và cư dân tạm bợ như thị trưởng Tam Sa thú nhận
như đã nêu. Do đó, khó có cơ sở để cho rằng nó có thể ‘duy trì được sự cư
trú của con người và có đời sống kinh tế riêng’ để được hưởng quy chế đảo như quy định
trong điều 121 UNCLOS như chúng ta giả định. Như vậy, khá chắn chắn để nói rằng
theo UNCLOS, tập quán và các án lệ quốc tế thì chỗ TQ đặt giàn khoan 981 (trước
và sau) đều nằm trong EEZ của VN.
H.3: tỉ lệ khoảng cách từ 981 đến Phú Lâm và đến bờ biển đất liền
VN 88:153 (hay tới đảo Lí Sơn 88:141) khó cho phép giàn khoan nằm trong EEZ, nếu
có của đảo Phú Lâm.
Theo phân tích
trên, rõ ràng TQ đã hết sức hồ đồ khi nói rằng dù “phân định ranh giới
theo nguyên tắc gì, vùng biển này đều không thể trở thành vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.” Họ đã hoàn toàn phớt lờ luật pháp, thông lệ quốc tế và ngay cả
luật pháp của chính họ[11].
Nếu TQ tin chắc rằng câu phát biểu này là đúng thì hãy rút lại tuyên bố ngày
25/8/2006 vể việc không chấp nhận các thủ tục giải quyết tranh chấp theo quy định
của điều 298 UNCLOS[12],
gác vấn đề chủ quyền để giải quyết sau và cùng VN ra tòa án quốc tế nhờ phân xử
về hiệu lực của quần đảo HS để làm sáng tỏ ‘chính nghĩa’ của mình. Liệu TQ có
dám thực hiện điều này không?
Phan Văn
Song (CTV Quỹ NCBĐ)
Bài viết được
sự góp ý của Dương Danh Huy (TV Quỹ NCBĐ)
Tác giả gửi BVN
------------------
[1] Xem BNG TQ http://www.fmprc.gov.cn/mfa_eng/zxxx_662805/t1163264.shtml (tiếng Anh) hoặc Tiếng hát hữu nghịhttp://vietnamese.cri.cn/481/2014/06/09/1s199588.htm (tiếng Việt)
[2] Xem Jayewardene, Hiran W. The Regime of
Islands in International Law, Dordrecht: Martinus Nijhoff (1990).
[3] Tỉ lệ độ dài bờ biển tương ứng là 65
km:531 km ≈ 1:8,2. Các thể địa lí ở HS đều nhỏ hơn nhiều và chỉ có một số ít có
thể được tính nên tỉ lệ bờ biển của HS với độ dài bờ biển VN tương ứng có nhiều
khả năng cũng không chênh lệch lớn với tỉ lệ này.
[4] Xem thêm http://en.wikipedia.org/wiki/Archipelago_of_San_Andr%C3%A9s,_Providencia_and_Santa_Catalina.
[5] Theo điều 47 UNCLOS thì các quốc gia quần
đảo như Philippines, Indonesia… có thể vẽ đường cơ sở thẳng cho quần đảo.
[6] Xem Geoff A. Dyer, “A line with nine
dashes” http://www.viet-studies.info/kinhte/LineWithNineDashes_Dyer.htm,
bản dịch tiếng Việt ở đây: http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=116&CategoryID=42&News=7384
[7] Điều 121 Công ước LHQ về Luật biển quy định
về Chế độ đảo như sau:
1. Đảo (island) là một vùng đất hình thành tự
nhiên có nước bao bọc xung quanh, nổi trên mặt nước khi triều cao.
2. Ngoại trừ [trường hợp] như quy định trong
điểm 3, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
của đảo được xác định theo đúng các quy định trong Công ước cho lãnh thổ đất liền
khác.
3. Đảo đá (rock) không thích hợp cho việc cư trú của
con người và không có đời sống kinh tế riêng thì sẽ không có vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa..
[8] Theo các thông tin chính thức đảo Bạch
Long Vĩ được 25% hiệu lực hay tỉ lệ điều chỉnh là 1:3 (có thể do đo đạc chưa thật
chính xác hoặc muốn cho thấy rằng thoả thuận này là khá công bằng).
[9] Nếu dùng khoảng cách từ giàn khoan tới đảo
Lí Sơn (như trong vụ Nicaragua và Colombia) thì các tỉ lệ có được còn lớn hơn
nhiều nữa (103 hl:119 hl ≈ 1:1,15 và .88 hl:141 hl ≈ 1:1,6).
[10] Xem http://en.wikipedia.org/wiki/Woody_Island_(South_China_Sea) (phần Ecology and resources).
[11] Đoạn 3 Điều 2 của luật trong luật về EEZ và CS của TQ năm 1998 nêu: “Các yêu sách mâu thuẫn liên quan đến
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và
các nước có bờ biển đối diện hoặc liền kề sẽ được giải quyết, trên cơ sở luật pháp quốc tế và phù hợp với các nguyên tắc công bằng (người viết nhấn mạnh), bởi một hiệp định
phân định cho các khu vực yêu sách đó.”
[12] Xem http://www.un.org/Depts/los/convention_agreements/convention_declarations.htm#China
Upon ratification
0 comments:
Đăng nhận xét