Từ Nguyễn Phú Trọng (phải) đến Lê Hiền Đức (trái), một khoảng cách vừa rất gần mà cũng rất xa |
Con
người có thể nhận thức được chân lý khách quan là nhờ biết KHÁI QUÁT HÓA, đúc
kết, xâu chuỗi những hiện tượng của thực tiễn thành các quy luật để hướng dẫn
cho hành động, tác động vào thực tiễn, rồi lại lấy kết quả thực tiễn để tiếp
tục kiểm tra sự đúng sai của nhận thức đã có… Nhưng nếu những khái quát, đúc
kết thực tiễn ban đầu đã sai mà lại quyết tâm “kiên trì” và phát triển những
sai lầm gốc rễ ấy thì nguy hiểm biết chừng nào? Bài giảng về chủ nghĩa xã
hội của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thuyết trình tại Cuba vừa rồi
là một ví dụ điển hình như vậy.
Trò chuyện với một vị
đảng viên già, từng lão luyện trong nghề tuyên giáo về bài viết ấy của ông Tổng
Bí thư, tôi bất ngờ về một nhận xét thú vị:
Người
ta cứ bảo ông Trọng là Trọng Lú, hay Trọng Cuội như hỗn danh của đám dân đen
gọi ông, nhưng đến bài này tôi thấy ông ấy cũng khôn, có tính toán đáo để, và có
pha chút tự tin tự hào thật sự nữa mới khổ. Cả bài lý luận thì ông ấy “cóp” y
nguyên những gì đã học được ở trường Đảng của Liên Xô, duy có một điểm sáng tạo
để ghi dấu ấn Nguyễn Phú Trọng vào lịch sử Mác-Lê,
đó là ông tự cho mình đã đem lại cho nền kinh tế thị
trường của nhân loại một khái niệm, một hình thái kinh tế-chính trị mà loài
người chưa từng biết đến là “Kinh tế thị trường với cái đuôi định hướng xã
hội chủ nghĩa”, tương tự như Tổng Bí thư Lê Duẩn đã đóng góp cho nhân loại
cái lý thuyết “Làm chủ tập thể” vậy. Cuba là diễn
đàn thích hợp nhất để ông tung ra luận điểm “đột phá” này.
Tôi
gật gù: Ừ thì, “đã sinh ra ở trong tuyên giáo, phải có
danh gì với Mác-Lê” một tý chứ lỵ, đường đường một Tiến sĩ
Xây dựng Đảng chứ có phải…
Thú
thật, bây giờ cứ trông thấy ông nào nói đến Mác-Lê một cách trịnh trọng là tôi
lại thấy mủi lòng mà ái ngại thế nào ấy, chẳng lẽ ông này là đồ đệ của Kim Jong
In hay sao mà không biết rằng đó chỉ là một thứ “rác
tư duy”
mà lịch sử đã vứt vào sọt? Bà Tổng thống Brasil tỏ ý ghê tởm một tín đồ Mác-Lê
và chốt cửa không cho vào thì cũng phải thôi.
Phải
công nhận những người sáng lập chủ nghĩa cộng sản đã rất “dũng cảm” khi quyết
làm một cuộc tổng kết KHÁI QUÁT HÓA vĩ đại bao trùm hết thế giới và bao trùm
hết lịch sử. Tiếc rằng ý đồ quá lớn nhưng lực bất tòng tâm nên cuối cùng chỉ là
những “khái quát vội” và “khái
quát nhầm”
một cách trầm trọng.
Ví dụ:
- Lầm tưởng chủ nghĩa
đế quốc là giai đoạn sau cùng của chủ nghĩa tư bản trước giờ cáo chung,
- Lầm tưởng lịch sử
loài người chỉ là những chuỗi đấu tranh giai cấp,
- Lầm tưởng tư hữu là
kẻ thù duy nhất sinh ra bất công nên dùng quyền lực để tiêu diệt tư hữu,
- Lầm tưởng nhà nước
chỉ là công cụ của giai cấp này đàn áp giai cấp khác nên hướng tới nhà nước tự
tiêu vong,
- Lầm tưởng sản xuất
tư bản càng phát triển thì người lao động càng bị bần cùng hóa nên xã hội tư
bản sẽ đi vào đường cùng,
- Lầm tưởng giai cấp
công nhân là giai cấp tiên tiến nhất có sứ mạng đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản,
- Lầm tưởng rằng vô
sản toàn thế giới có thể liên hiệp lại vượt qua mọi ranh giới quốc gia,
- Lầm tưởng một số
diễn biến tại châu Âu bấy giờ là khái quát chung cho thế giới,
- Lầm tưởng có thể
thiết kế lại thế giới và uốn nắn lại con người, có thể điều khiển loài người
một cách có kế hoạch và theo một quỹ đạo do những đầu óc siêu việt nghĩ ra… vân
vân và vân vân…
Nhưng,
nghĩ cho cùng thì Mác-Lê có cả nghìn điều sai lầm cũng chẳng cần để ý làm gì,
chỉ biết một điều, còn Mác-Lê thì còn Đảng, còn Đảng thì vẫn còn câu Quốc tế ca
“bao nhiêu lợi quyền ắt qua tay mình” là được rồi. Tim
đen ấy ai mà chẳng biết, “bạn đời ơi ta đã hiểu nhau rồi” (thơ Tố Hữu nhiều
câu trứ danh thật!).
Mác-Lê
đã khái quát nhân loại một cách trật khấc như vậy, thì dưới ánh sáng ấy ông
Tổng Bí thư có khái quát tình hình Việt Nam thế nào cũng có thể đoán trước. Có
người bảo Tổng Bí thư mô tả hiện tình Việt Nam như lời một kẻ mộng du, thực
tiễn một đằng đúc kết một nẻo. Ông Hạ Đình Nguyên thì gọi đó là “sự
khốn cùng của đúc kết thực tiễn và tư duy lý luận” thật chẳng sai chút
nào.
Nhưng
không phải tư duy của đảng viên cộng sản nào cũng “khốn
cùng”
như ông Tổng Bí thư. Trong những đảng viên có nhận thức khái quát ngược chiều
với Tổng Bí thư và sát với thực tiễn không ai bằng cụ Lê Hiền Đức. Cụ Lê Hiền
Đức không phải nhà lý luận và không hề có ý định viết lý luận, nhưng “đằm mình”
trong thực tiễn ở những nơi xung đột nóng bỏng nhất của mâu thuẫn xã hội, cụ đã
khái quát thực tiễn thành những kết luận đanh thép như dao chém đá, nổi bật
nhất là hai luận điểm sau đây:
1- “Chừng
nào ông Đoàn Văn Vươn và những người thân của ông còn phải nằm trong vòng lao
lí, còn chưa được bồi hoàn các quyền lợi về vật chất, tinh thần đã bị xâm phạm
thì chừng đó tôi còn nhìn chính quyền trung ương của Việt Nam chỉ như
là sự PHÓNG TO của chính quyền huyện Tiên Lãng, chính quyền thành phố Hải Phòng
mà thôi”. Kết luận này đánh tan
một luận điểm cố hữu được dùng như tấm lá chắn cho sự sống còn của Đảng Cộng
sản luôn coi mọi sự bê bối chỉ là những hiện tượng cá biệt, chỉ là sai lầm
trong việc thực hiện ở cấp dưới. Cụ Lê Hiền Đức đã khái quát rằng trên dưới đều
cùng một giuộc, càng lên trên thì đám “cướp ngày, cướp cạn” chỉ càng “phóng
to”
hơn mà thôi, vấn đề thuộc về bản chất rồi.
2- Sau khi “xét
về nhiều mặt, tình cảnh người dân Việt Nam hiện nay còn kém cả thời chịu ách
cai trị của phong kiến, ách đô hộ của thực dân, phát-xít”, sau khi thấy nhà
nước hiện nay đã đi ngược lại các khẩu hiệu cách mạng trước đây, đã “nghiền
nát hai chữ nhân dân”
trong tên gọi của nhiều tổ chức do Đảng Cộng sản lãnh đạo, cụ Lê Hiền Đức kết
luận về Đảng và nhà nước hiện nay là“phản cách mạng đã rõ
ràng rồi”.
Một
đảng, một nhà nước tự xưng cách mạng nhưng hiện nay đã đi vào con đường “phản
cách mạng”
cũng tức là phản động, chống lại nhân dân!
Luận
điểm này quan trọng, nó đánh tan luận điểm tuyên truyền cố hữu rằng “ý
Đảng là lòng Dân”, Đảng
với Dân là một!
Một
khi “một bộ phận không nhỏ” trong giới cầm quyền đã phản cách mạng, phản lại
nhân dân, dân và họ đã đi trên hai con đường ngược nhau thì làm gì có “thời cơ vàng của dân tộc
cũng (đồng thời) là thời cơ vàng của Đảng ta” như tác giả Nguyễn
Trung đã “phát hiện” và rất nhiều đảng viên tương tự cũng tán thành?
Và
cũng không thể bàn về “sự lựa chọn nào cho Việt
Nam” nói chung khi Việt Nam bao gồm hai
thành tố ngược chiều khác nhau về lợi ích: một nhân dân Việt Nam lương thiện và
một thế lực cầm quyền đã thoái hóa đến độ “phản cách mạng rõ
ràng”,
tức đã không còn đồng hành cùng nhân dân (mặc dù bác Nguyễn Trung phân tích thế
giới bên ngoài rất kỹ càng, chí lý). Đây cũng là đề tài để những người cùng
chung khát vọng canh tân đất nước phải suy nghĩ.
Sau
cùng cho phép tôi nhắc đến mấy lời đồng cảm của riêng tôi, một người khác hẳn
cụ Lê Hiền Đức, vì tôi không là đảng viên cũng chẳng có hoạt động thực tiễn nào
ngoài lĩnh vực nghiên cứu sinh học, về xã hội tôi chỉ là kẻ “lý thuyết suông”.
Vậy mà, may cho tôi, “tư duy lô-gích” trong bài “Chia tay Ý thức hệ”
và bài “Từ vụ Bô-xít nghĩ về vận
nước”, đã giúp tôi mường tượng ra cái viễn cảnh dằn vặt trước sự
PHẢN BỘI không thể tránh khỏi của tất cả những ai đã dấn thân theo con đường
cộng sản:
“Học
thuyết chuyên chính vô sản là bà đỡ cho cả nạn NỘI XÂM lẫn NGOẠI XÂM, hai kẻ
sinh đôi này tất nhiên câu kết với nhau để cùng tước đoạt quyền làm chủ của dân
đối với đất nước”.
“Hậu quả là ngày nay bất cứ người
cộng sản nào cũng phải chọn một trong hai sự ‘PHẢN BỘI’ không thể thoái thác: hoặc
là phản lại (hoặc từ bỏ) học thuyết sai lầm để trung thành
với nước với dân (cũng là trung thành với tấm lòng và mục tiêu chân chính của
Mác), hoặc là cứ ‘trung thành’ với học thuyết sai lầm thì lại phản dân tộc,
phản tiến hoá. Người cộng sản tử tế chọn cách ‘phản’ thứ nhất! Còn
phần lớn người cộng sản có quyền bính trong tay thì chọn cách ‘phản’ thứ hai,
và gọi sự ‘phản’ của họ là đức tuyệt đối trung thành. Thái độ im lặng thực chất
là gián tiếp đồng loã với cách phản bội thứ hai”.
Tôi
cảm phục cụ Lê Hiền Đức một phần, vì sự dũng cảm của người đảng viên già dấn
thân vào thực tế đấu tranh gian khổ cùng những người nông dân nghèo khó và oan
ức, thì tôi càng cảm phục bội phần khả năng tư duy và khái quát chặt chẽ, rành
mạch của cụ. Người đảng viên già sở dĩ rành mạch được vì trong tâm khảm của cụ
chỉ có một nỗi đau đáu duy nhất: Tôi thương dân tôi lắm! Chỉ một câu đơn giản
thế thôi mà nghe đến ứa nước mắt.
Trước bài thuyết
trình của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về thực tiễn ViệtNam, cụ Lê Hiền Đức
sừng sững là một đối chứng.
Từ Nguyễn Phú Trọng
đến Lê Hiền Đức, một khoảng cách vừa rất gần mà cũng rất xa.
Người phụ nữ được
Giải thưởng Liêm chính năm 2007 của Tổ chức Minh bạch Quốc tế chẳng những MINH
BẠCH trong hoạt động đấu tranh thực tiễn mà càng MINH BẠCH trong tư duy, trong
khi tư duy của rất nhiều nhà trí thức khoa bảng hiện nay, kể cả trí thức tiến
bộ xem chừng còn xa mới đạt đến độ… MINH BẠCH!
8/5/2012
Hà Sĩ Phu
nguồn:
http://www.procontra.asia/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét