“Nhà nước ta không tam quyền
phân lập”, là khẳng định của Ông tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, người đứng đầu đảng
cộng sản VN, người vừa bị tổng thống Brasil từ chối tiếp đón như nguyên thủ quốc
gia, bởi ông chỉ đại diện cho 3 triệu đảng viên chứ không đại diện cho 90 triệu
dân.
Trong bài phát biểu chỉ đạo Hội nghị trung ương đảng CSVN, lần
5, khoá XI, hôm qua, 07.05.2012, ở phần chỉ đạo về sửa đổi Hiến pháp, Ông Trọng
nói: “Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp phải tiếp tục khẳng định bản chất và mô hình tổng
thể của thể chế chính trị và bộ máy nhà nước đã được xác định trong Cương lĩnh
(bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 1992. Đó là: Nhà nước ta là Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước
thông qua tổ chức nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quốc hội là cơ quan đại
biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và là cơ quan
duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp; các cơ quan nhà nước khác do Quốc hội lập
ra, có trách nhiệm báo cáo công tác và chịu sự giám sát tối cao của Quốc hội.
Nhà nước ta không tam quyền phân lập”.
Xây dựng một nhà nước pháp quyền, thượng tôn pháp luật mà
Tam quyền không phân lập thì nhà nước đó là nhà nước nào?
Theo tự điển Bách khoa mở Wikipedia giới thiệu nội dung căn
bản của Tam quyền phân lập như sau:
“Thuyết tam quyền phân lập xuất hiện lần đầu tiên bởi nhà
bác học vĩ đại của Hy Lạp Aristote. Theo Aristote, nhà nước quản lý xã hội bằng
3 phương pháp: luật pháp, hành pháp và phân xử.
Ông cho rằng, không có loại hình chính phủ nào là duy nhất
có thể phù hợp với tất cả các thời đại và các quốc gia. Ông phân chính phủ theo
tiêu chuẩn số lượng (số người cầm quyền) và chất lượng (mục đích của sự cầm quyền)
– kết hợp 2 mặt đó, các chính phủ có thể xếp theo 2 loại: chân chính (quân chủ,
quý tộc, cộng hoà) và biến chất (độc tài, quá đầu, dân trị).
Bên cạnh Aristote, bàn về thuyết ”tam quyền phân lập” còn có
John Locke. Theo ông, quyền lực của nhà nước là quyền lực của nhân dân. Nhân
dân nhường một phần quyền của mình cho nhà nước qua khế ước. Và để chống độc
tài phải thực hiện sự phân quyền. Kế thừa tư tưởng phân quyền của Aristote,
Locke cho rằng, quyền lực phải phân chia theo 3 lĩnh vực: lập pháp, hành pháp
và liên hợp.
Từ thế kỷ 18, nhà tư tưởng vĩ đại người Pháp Montesquieu, đã
phát triển thuyết tam quyền phân lập trở thành một học thuyết độc lập. Tiếp thu
và phát triển tư tưởng về thể chế chính trị tự do, chống chuyên chế,
Mongtesquieu xây dựng học thuyết phân quyền với mục đích tạo dựng những thể chế
chính trị đảm bảo tự do cho các công dân.
Theo ông, tự do chính trị của công dân là quyền mà người ta
có thể làm mọi cái mà pháp luật cho phép. Pháp luật là thước đo của tự do. Cũng
như Aristote và J. Locke, Mongtesquieu cho rằng, thể chế chính trị tự do là thể
chế mà trong đó, quyền lực tối cao được phân thành 3 quyền: lập pháp, hành
pháp và tư pháp.
- Lập pháp:
biểu hiện ý chí chung của quốc gia . Nó thuộc về toàn thể nhân dân, được trao
cho hội nghị đại biểu nhân dân – Quốc hội
- Hành pháp:
Là việc thực hiện luật pháp đã được thiết lập.
- Tư pháp: là
để trừng trị tội phạm và giải quyết sự xung đột giữa các cá nhân. Các thẩm phán
được lựa chọn từ dân và xử án chỉ tuân theo pháp luật.
Tư tưởng phân quyền của Mongtesquieu là đối thủ đáng sợ của
chủ nghĩa chuyên chế phong kiến và có thể khẳng định ông là người đã phát triển
và hoàn thiện thuyết:”tam quyền phân lập”. Học thuyết về sự phân chia quyền lực
gắn liền với lí luận về pháp luật tự nhiên đã đóng vai trò quyết định trong lịch
sử đấu tranh của giai cấp tư sản chống lại sự độc đoán, chuyên quyền của nhà
vua
Cùng với sự hình thành chế độ tư bản, nguyên tắc “phân chia
quyền lực” đã trở thành một trong những nguyên tắc chính của chủ nghĩa lập hiến
tư sản, lần đầu tiên được thể hiện trong các đạo luật mang tính hiến định của
cuộc Cách mạng Pháp và sau đó thể hiện đầy đủ trong Hiến pháp Hoa Kỳ 1787. Học
thuyết pháp luật – chính trị (thuyết “phân quyền”) với quyền lực nhà nước được
hiểu không phải là một thể thống nhất, mà là sự phân chia thành 3 quyền: quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp, các quyền này được thực hiện độc lập với nhau,
kiểm soát lẫn nhau, kiềm chế lẫn nhau. Trên thực tế, việc phân chia quyền lực
trong bộ máy nhà nước được áp dụng khác nhau trong hệ thống các nước cộng hoà tổng
thống, theo nguyên tắc “kiềm chế và đối trọng”, tức là các quyền kiểm tra và
giám sát lẫn nhau, tạo ra sự cân bằng giữa các quyền”.
Như vậy Tam quyền phân lập là cách giúp đất nước và dân tộc
thoát ra khỏi chế độ độc tài, chuyên chế phong kiến, và cũng ngăn ngừa sự lạm
quyền, thông đồng.
Khi Ông TBT nói “Nhà nước ta không tam quyền phân lập”, tức
là ông khẳng định “nước ta” là nước “độc tài, chuyên chế phong kiến” do ông là
người đứng đầu. “Ông là người đứng đầu” là một khái niệm không có trong Hiếp
pháp và pháp luật VN hiện hành, mà chỉ có trong sự chỉ đạo ngầm phi pháp.
Và như vậy việc chống tham nhũng như ông vừa hô hào trong cuộc
gặp các cử tri, trong tư cách đại biểu QH, của tuần qua chỉ là lời lừa bịp, vì
“nhà nước ta không tam quyền phân lập” thì “nhà nước ta” không ngăn ngừa được lạm
quyền, nguyên nhân dẫn đến tham nhũng.
Chúng tôi đặt câu hỏi “nhà nước ta” trong phát biểu của Ông
TBT là “nhà nước” nào? Có bao gồm 90 triệu dân chúng tôi không? Nếu có thì
chúng tôi (hơn 80 triệu dân) mới có quyền nói “nhà nước ta” như thế nào, chứ
Ông TBT chỉ đại diện cho thiểu số 3 triệu dân – số đảng viên, chiếm chưa tới 4%
dân số – làm sao có thể đại diện để nói “nhà nước ta” phải thế này thế kia?
DienDanCTM
nguồn: http://www.chuacuuthe.com/archives/31120
Thật nực cười làm đảng trưởng của một tập thể rất đông nhân sự,mà hình như ông Nguyễn Phú Trọng chẳng biết gì về "tam quyền phân lập",rõ ràng độc tài toàn trị,tham quyền.
Trả lờiXóađúng là Trọng "lú" không sai tí nào
Trả lờiXóa