A - Lời mở đầu
Bài viết này
không có chủ ý biện hộ hay kết án cố thủ tướng Phạm Văn Đồng về sự kiện
"bức công hàm 14/09/1958 liên quan đến HS-TS", và cũng không muốn bàn
tán thêm về chủ đề chủ quyền VN trên hai quần đảo này vì đã có quá nhiều luật
gia và học giả khắp nơi ra sức tranh luận từ hơn 5 năm qua trong các trang mạng
Internet.
Bài viết xin phép
được trình bày một cách nhìn khác trung thực và sâu xa hơn về vấn đề Biển Đông
nói riêng và lịch sử cận đại VN nói chung, trong đó Đảng Cộng Sản Việt Nam nam giữ một
vai trò chủ chốt vô cùng quan trọng.
B- Dẫn chứng lịch sử VN
xung quanh bức công hàm PVĐ 1958
Những dẫn chứng
lịch sử xung quanh sự kiện HS-TS không có nhiều, thật ra chỉ có hai văn kiện chính
thức mà mọi người có thể truy tìm trên Google một cách dễ dàng, tôi xin phép
được trích dẫn ra đây hai bản văn kiện tối quan trọng, đó là:
1)- Văn kiện 1: Bức công hàm do cố thủ tướng VNDCCH Phạm Văn
Đồng ký ngày 14/09/1958 lên tiếng ủng hộ tuyên bố của chính phủ Trung Quốc liên
quan đến giới hạn và khu vực hải phận của TQ. Văn kiện này chính ông PVĐ đích
thân ký tên, mang quốc huy, quốc hiệu VCDCCH, con dấu chính phủ, và do chính
tay cố ngoại trưởng VN Ưng Văn Khiêm trao tay cho người đồng nhiệm phía TQ. Sau
do công hàm PVĐ được nhật báo Nhân Dân chụp ảnh, in ấn nguyên bản và đăng công
khai để người dân miền Bắc biết. Tuy nhiên không hề thấy báo Nhân Dân chụp ảnh
và đăng "bản tuyên bố chủ quyền đất đai và vùng hải phận của TQ" mà
công hàm PVĐ đã ghi nhận.
2)- Văn kiện 2: Bản tuyên bố chủ quyền quần đảo của TQ, giới
hạn hải phận 12 hải lý (khoảng 22km) bao bọc bờ biển của đất liền (TQ), hải
phận rộng 12 hải lý bao quanh các quần đảo trong vùng Biển Đông (trong đó TQ
xác định HS-TS là thuộc chủ quyền của họ). Đi xa hơn nữa TQ còn xác định rõ
ràng vùng hải phận xác định bởi những đường thẳng căn bản nối từ đất liền TQ
đến các hòn đảo ngoài khơi (trong đó có HS-TS của VN). Bản tuyên bố này không
mang quốc huy, quốc hiệu TQ, không mang chữ ký người gửi, không con dấu, không
để tên người nhận và cũng không biết cơ quan truyền thông nào chịu trách nhiệm
phát hành.
_____________________________
Tuyên Bố của
Chính Phủ Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc về Lãnh Hải
(Ðược thông qua
trong kỳ họp thứ 100 của Ban Thường Trực Quốc Hội Nhân Dân ngày 4 tháng 9 năm 1958)
Cộng Hòa
Nhân Dân Trung Quốc nay tuyên bố:
(1) Bề rộng lãnh hải của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc là 12 hải lý. Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Ðài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.
(2) Các đường thẳng nối liền mỗi điểm căn bản của bờ biển trên đất liền và các đảo ngoại biên ngoài khơi được xem là các đường căn bản của lãnh hải dọc theo đất liền Trung Quốc và các đảo ngoài khơi. Phần biển 12 hải lý tính ra từ các đường căn bản là hải phận của Trung Quốc. Phần biển bên trong các đường căn bản, kể cả vịnh Bohai và eo biển Giongzhou, là vùng nội hải của Trung Quốc. Các đảo bên trong các đường căn bản, kể cả đảo Dongyin, đảo Gaodeng, đảo Mazu, đảo Baiquan, đảo Niaoqin, đảo Ðại và Tiểu Jinmen, đảo Dadam, đảo Erdan, và đảo Dongdinh, là các đảo thuộc nội hải Trung Quốc.
(3) Nếu không có sự cho phép của Chính Phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, tất cả máy bay ngoại quốc và tàu bè quân sự không được xâm nhập hải phận Trung Quốc và vùng trời bao trên hải phận này. Bất cứ tàu bè ngoại quốc nào di chuyển trong hải phận Trung Quốc đều phải tuyên thủ các luật lệ liên hệ của Chính Phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc
(4) Ðiều (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Ðài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.
Ðài Loan và Penghu hiện còn bị cưỡng chiếm bởi Hoa Kỳ. Ðây là hành động bất hợp pháp vi phạm sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc. Ðài Loan và Penghu đang chờ được chiếm lại. Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc có quyền dùng mọi biện pháp thích ứng để lấy lại các phần đất này trong tương lai. Các nước ngoại quốc không nên xen vào các vấn đề nội bộ của Trung Quốc
(Bản dịch của Trung Tâm Dữ Kiện)
Chú
thích: Quần
đảo Tây Sa (tên tiếng Tàu Xisha) = Quần
đảo Hoàng Sa = Paracel Islands
Quần đảo Nam Sa (tên tiếng Tàu Nansha) = Quần đảo Trường Sa = Spratly Islands
Quần đảo Nam Sa (tên tiếng Tàu Nansha) = Quần đảo Trường Sa = Spratly Islands
_____________________________
Tôi đã kiên nhẫn
theo dõi suốt 6 năm qua, từ khi có cuộc biểu tình đầu tiên của người dân SaiGon
tháng 11/2007 đòi hỏi chủ quyền HS-TS cho VN, đến nay rất nhiều học giả TSGS,
luật gia VN hay ngoại quốc, tri thức Việt kiều hải ngoại thay phiên nhau tranh
luận, chủ yếu chỉ dựa trên "bức công hàm PVĐ 1958" để biện hộ cho ông
và ra sức tranh cãi pháp lý quốc tế để giành lại chủ quyền VN trên hai quần đảo
này. Tôi chưa thấy ai đề cập gì đến "bản tuyên bố chủ quyền và hải phận
của TQ 04/09/1958" và cũng không cung cấp gì thêm dẫn chứng lịch sử nào
khác ngoài hai văn kiện đó. Do đó tôi có thể đặt giả thuyết rằng "bản
tuyên bố TQ 04/09/1958" có thật, tuy rằng hình thức không rõ ràng, nhưng
nội dung yêu cầu thì rất ư chi tiết. Nếu chỉ bàn luận trên "bức công hàm
PVĐ 1958" mà không nhắc gì đến "bản tuyên bố TQ 1958" thì theo
tôi, quả là một thiếu sót rất lớn hoặc có thể là một mánh khoé đánh lạc hướng
công luận nhằm che dấu một sự thật hệ trọng. Đó là lý do khiến tôi phải đọc đi
đọc lại hai văn bản này hàng chục lần, hy vọng tìm ra manh mối dẫn dắt đến tình
thế phức tạp của VN hiện nay trong vùng Biển Đông.
Sau đây là những phân
tích của tôi, dựa trên nội dung và hình thức của hai bản văn kiện ngoại giao
quan trọng đó.
1)- Sai lầm nghiêm trọng
Bức công hàm PVĐ
1958 đã để lộ ra nhiều sơ hở chết người, quan sát kỹ chúng ta sẽ thấy:
a)- Sơ hở về thời gian: Từ khi nhận được
"bản tuyên bố chủ quyền và hải phận TQ ngày 04/09/1958" cho đến khi
PVĐ đặt bút ký "bức công hàm ngày 14/09/1958" chỉ vỏn vẹn có mười
ngày (10) ngắn ngủi, để quyết định một sự kiện lịch sử tối hệ trọng liên quan
đến chủ quyền quốc gia, đến vận mệnh dân tộc VN. Nên nhớ rằng thời kỳ đó miền
Bắc VN và TQ kết thân nhau như anh em, cùng chung ý thức hệ CS, cùng chung giới
tuyến chống đế quốc Mỹ, thế thì tại sao chính quyền Hà Nội chỉ được có 10 ngày
để bàn bạc thảo luận? Phải chăng TQ đã ra một đòn cân não, áp lực chính trị
nặng nề đến mức Đảng Cộng Sản Việt Nam do ông Hồ Chí Minh cầm đầu
không còn biện pháp nào khác hơn ngoài sự ngoan ngoãn cúi đầu tuân lệnh ? Phải
chăng tình hình chính trị kinh tế xã hội bết bát của miền Bắc thời đó quá tồi
tệ, lòng dân ly tán sau chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất tàn sát hàng trăm ngàn
người dân vô tội, vụ án Nhân Văn Giai Phẩm tiêu diệt trí thức, sau khi hàng
triệu nguời di cư vào Nam đi tìm tự do, chính sách Hợp Tác Xã bị phá sản hoàn
toàn, miền Bắc VN túng quẫn, nạn đói đe doạ trầm trọng ép buộc chính quyền Hà
Nội và ĐCS VN phải cúi đầu tuân lệnh ĐCS TQ để tiếp nhận viện trợ thực phẩm và
nhu yếu phẩm ? Thời gian trả lời chỉ có 10 ngày vỏn vẹn, không khác gì một kiểu
"tối hậu thư" thúc ép Hà Nội phải trả lời nhanh cấp tốc. Buồn thay
cho vận mệnh dân tộc VN!
b)- Sơ hở về hình thức: Tại sao chính phủ
VNDCCH phải sử dụng đến hình thức ngoại giao công khai chính thức rất ư nghiêm
túc chỉ để trả lời một “bản tuyên bố vu vơ, một lá thư nặc danh không tên
tuổi" đáng vứt vào sọt rác ? Phải
chăng đây là một mánh khoé chính trị, một cạm bẫy do ĐCS TQ giăng ra để ép buộc
Hà Nội rơi vào vòng kiềm toả của họ ? Tôi nghĩ thầm đến hai giả thuyết, như
sau:
- một là lãnh đạo
TQ không muốn bị bẽ mặt nếu chẳng may chính quyền CS Hà Nội tỏ vẻ cứng đầu phản
đối, hoặc cù cưa không trả lời;
- hai là lãnh đạo TQ sử
dụng đòn ngầm cưỡng ép miền Bắc phải trả lời công khai chính thức bằng văn bản
ngoại giao, để sau này họ nắm trong tay đầy đủ chứng từ trưng ra
trước công luận thế giới. Giả thuyết này ngày nay đã thành hiện thực, bản thân
thế hệ trẻ sau này đành phải đưa đầu chịu báng, ngư dân VN tiếp tục bị tàu TQ
xua đuổi, bị phá phách, bị cướp bóc ngay trong vùng hải phận VN.
c)- Sơ hở về nội dung: Bức công hàm PVĐ
1958 không đề cập gì đến "yêu cầu chủ quyền của TQ trên hai quần đảo
HS-TS". Đúng thế, đọc kỹ công hàm vắn tắt chúng ta không thể tìm ra được
câu chữ nào dính líu đến "chủ quyền TQ trên HS-TS". Tôi thầm nghĩ ông
Hồ và toàn thể BCT thời đó hãy còn trẻ, uy tín lẫy lừng ở miền Bắc sau chiến
thắng Điện Biên Phủ 1954, họ không dại dột gì lấy trách nhiệm với dân tộc về
vấn đề chủ quyền lãnh thổ. Tuy nhiên họ đã bị rơi vào cạm bẫy TQ khi công khai
chấp nhận chủ quyền TQ trong vùng hải phận 12 hải lý (22km). Sơ hở này nghiêm
trọng hơn vấn đề HS-TS vì lẽ bức công hàm mặc nhiên cho phép TQ độc quyền tung
hoành trong Biển Đông bao la:
- một: Công hàm cho phép TQ được quyền bao vây các hòn đảo thuộc chủ quyền
VNCH (HS-TS, miền Nam).
TQ được quyền sử dụng mọi phương tiện quân sự để đánh phá những tàu bè VN đi
vào các vùng hải phận này. Ai cũng biết rằng HS-TS có rất nhiều đảo nhỏ không
lớn hơn 1km vuông, rất thấp, không có nguồn lợi kinh tế gì cả. Tuy nhiên hải
phận 12 hải lý (22km) bao bọc mỗi đảo nhỏ chính là một vùng đặc sản kinh tế
rộng lớn (hơn 1500 km vuông/mỗi đảo), chứa hải sản, hay mỏ dầu hoả chất lượng
tốt. Đó chính là lý do tại sao hàng chục ngàn ngư thuyền TQ đang tranh nhau
khai thác vùng biển trời cho này. Ngược lại ngư dân VN thì lại bị đánh đuổi,
thậm chí muốn vào tránh bão cũng không được.
- hai: Công hàm PVĐ 1958 đã mặc nhiên công nhận một vùng hải phận bao la (hơn
700,000 km2) ấn định bởi những đường thẳng căn bản nối liền từ bờ biển TQ đến
tận các hải đảo ngoài khơi (trong đó có HS-TS). Mỗi đường thẳng căn bản này
được TQ đòi hỏi có một hành lang rộng 12 hải lý (22km). Trân trọng mời quý vị
độc giả quan sát bản đồ Biển Đông (đính kèm) để hiểu rõ thêm vùng hải phận bao
la ấn định bởi những đường thẳng nối liền từ bờ biển TQ tới hàng chục đảo nhỏ
của Trường Sa, nơi xa nhất (khoảng 1700km, chiều rộng ngắn nhất 400km, theo tỷ
lệ của bản đồ). Chấp nhận vùng hải phận này do TQ yêu cầu, chính là chấp nhận
thế bị bao vây, mọi con đường hàng hải từ VN đến Nhật Bản, Phi, Đài Loan hay
Đại Hàn về hướng Đông đều bị ngăn cản. Đó chính là hàng rào chiến lược vĩ đại
mà TQ hiện nay đang cố gắng nâng cấp lực lượng hải quân hùng hậu đứng thứ 2 thế
giới, nhằm bao vây Việt Nam. Trong tương lai VN không còn đất đứng, đành phải
chịu thân phận "một vùng tự trị giống như Tây Tạng".
- ba: Đừng thắc mắc tại sao TQ ngang nhiên đem tàu chiến xâm phạm HS-TS đánh
chìm tàu hải quân VNCH (miền Nam) năm 1974, đừng trách cứ Hoa Kỳ tại sao bỏ rơi
miền Nam, vì nhân dân Mỹ đã quá chán ngán với chiến cuộc VN, mà hãy trách cứ
tại sao ĐCS VN đã cúi đầu công nhận chủ quyền TQ trong một vùng hải phận bao la
(hơn 700,000 km2) rộng hơn gấp hai lần lãnh thổ VN. Tình thế khó khăn của dân
tộc VN hiện nay trong Biển Đông chính là hệ luỵ từ bức công hàm PVĐ 1958. Công
pháp quốc tế có ba đầu sáu tay cũng không thể nào cãi lại với chính quyền TQ
khi họ chìa "bức công hàm PVĐ 1958" ra làm bằng chứng.
c)- Sơ hở về chiến lược: Lý do gì ĐCS VN
không cho phép nhật báo Nhân Dân trích dẫn "bản tuyên bố TQ
04/09/1958" mà công hàm PVĐ đã nhắc đến ? Đây là một thiếu sót vô cùng hệ
trọng. Ngày nay có ai dám đứng ra cãi rằng "bản tuyên bố TQ" tìm thấy
trên Google là giả tạo ? Có ai dám lục hồ sơ chính phủ VNDCCH năm 1958 để đem
"bản tuyên bố TQ thật" ra đối chất ? Bức công hàm PVĐ 1958 đã hiện rõ
bộ mặt thật của lãnh đạo ĐCS VN: đó là bản chất lừa dối, giấu diếm sự thật, lập
lờ đánh lận con đen để lừa phỉnh quần chúng. Hành vi mập mờ này chứng tỏ toàn
thể Bộ Chính Trị ĐCS VN bị dồn vào thế thụ động phải tuân thủ mệnh lệnh Bắc Kinh, nhưng để trốn
tránh trách nhiệm họ đã nhắm mắt ngậm miệng để cho cố thủ tướng PVĐ đứng ra
chịu tội, sau này búa rìu công luận sẽ nhắm vào cá nhân ông PVĐ mà quên đi rằng
toàn thể lãnh đạo ĐCS VN chính là thủ phạm. Những ai từng sống dưới chế độ vô
sản chuyên chính hiểu rõ nguyên tắc bất di bất dịch "Đảng lãnh đạo / Nhà
Nước quản lý / Nhân Dân làm chủ". Do đó trách cứ đổ lỗi cho ông PVĐ là sai
hoàn toàn. Tôi chỉ buồn là vào thời kỳ đó, toàn bộ lãnh đạo ĐCS VN hãy còn sung
sức và uy tín rất cao, và đại tướng Võ Nguyên Giáp đâu rồi, sao không thấy lên
tiếng về quyết định trọng đại này ? Lòng yêu nước của những người lãnh đạo VN đã
bị chủ nghĩa giáo điều CS bào mòn, trở nên khiếp nhược trước áp lực của quân
xâm lược Bắc Kinh.
C- Kết luận:
Thật không dễ
chút nào cho một kiều bào hải ngoại như tôi muốn tìm hiểu lịch sử cận đại VN,
khi mà có quá nhiều giấu diếm, tuyên truyền dối trá nhằm che đậy sự thật do ĐCS
VN cố tình gieo rắc gây hoang mang nghi kỵ. Nói theo lời anh Nguyễn Ngọc Giao
(báo Diễn Đàn) rằng "ba thế hệ dân tộc VN đã bị ĐCS VN cho ăn cháo lú suốt
hơn 60 năm ròng", sách giáo khoa đã bị bóp méo nhằm mục đích đào tạo một
thế hệ "nô dịch" phục vụ cho mưu đồ Hán hoá, làm hao mòn tinh thần
yêu nước bất khuất của nòi giống Lạc Việt mà tiền nhân đã đổ biết bao xương máu
để kiến tạo nên một đất nước oai hùng chống xâm lược không mỏi mệt.
Không thể nào nói
chuyện "hoà hợp hoà giải dân tộc" khi mà chủ nghĩa giáo điều CS là
kim chỉ nam cho mọi hành động, khi mà tất cả mọi danh từ nhằm vu khống cho cả
triệu người dân miền Nam vô tội vẫn tiếp tục được sử dụng trên báo chí truyền
thông "lề phải", nào là: nguỵ quân, nguỵ quyền, nào là chi'nh phủ bù
nhìn, nào là phản động, nào là phản quốc, Việt gian. Đến bây giờ nếu ai công
tâm ngồi suy nghĩ kỹ và phân tích lịch sử nhân loại sẽ thấy ngay "kẻ phản
quốc, phản động, bù nhìn, tay sai ngoại bang, nguỵ quyền" chính xác là tập
đoàn lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam. Kẻ nào gieo Nhân thì phải hái
Quả, kẻ nào gây Nghiệp ác thì phải lãnh nhận quả Báo, giáo pháp Nhà Phật không
sai chút nào.
Bài viết này mới
chỉ nhằm phân tích tìm kiếm sự thật nằm sau "bức công hàm PVVD 1958".
Những hệ luỵ do bức công hàm PVĐ 1958 gây ra cho dân tộc VN suốt nửa thế kỷ dẫn
dắt đến cuộc chiến tranh tương tàn sẽ được phân tích ở bài viết sau. Một vấn đề
trọng đại như bức công hàm PVĐ 1958, đưa đến chiến tranh tương tàn, dân tộc ly
tán, hơn 6 triệu người dân VN bị chia lìa, mất trắng cơ nghiệp, anh chị em, gia
đình phân cách trong suốt 60 năm ròng, thì ngày 30/04 không thể nào được xem
như là "một chiến thắng vinh quang", ngược lại đó chính là một dấu
tích ô nhục cho tiền đồ một dân tộc.
Rất mong nhận
được những phản hồi góp ý của quý vị độc giả bốn phương, trong và ngoài nước
nhằm làm sáng tỏ vấn đề Biển Đông cho tương lai dân tộc Việt Nam.
Thành thật cám
ơn,
Lê Quốc Trinh, Canada
30/04/2013
2 comments:
THÁNG TƯ BUỒN
Không hiểu sao tháng tư buồn đến thế
Ba mươi tám năm, ba mươi tám tháng tư buồn
Một đất nước oằn mình trong đau đớn
Một quê hương đau nhói những hao mòn
Loài quỷ dữ lên làm người lâu quá
Chiến tranh xa rồi mà máu còn tươm
Lời nhục mạ làm úa vàng cây cỏ
Dấu oán thù vương trên những tấm bia buồn
Loài quỷ dữ lên làm người lâu quá
Hạt đòng đòng nghẹn ứ cánh đồng quê
Phường và phố nhởn nhơ loài rác rưởi
Nỗi buồn làm teo tóp cánh rừng khô
Ngôi trường của ngày nào rơi nước mắt
Nhìn mái đầu xanh bị nhồi nhét căm thù
Bôi bác cha ông tung hô xác chết
Nhân nghĩa xa rời, đạo đức đi đâu
Con sông xưa những màu hoa tím ngát
Đang oặn giòng chở rác rến không xuôi
Làn nước bẩn, sần chai da rám nắng
Chiếc xuồng bơi chập choạng những ngậm ngùi
Ông núi đá không còn trầm tư nữa
Lưng loang loang từng nhát cắt rợn người
Vầng trăng khóc đổ hạt sương ngầu lệ
Chói chang buồn sợi nắng chẳng hề nguôi
Như giận dữ cơn mưa sầu tuôn mãi
Nước lênh lang mà không biết nước gì
Mấy mươi triệu con người đang tất bật
Bước chân cuồng mà không rõ đường đi
Lũ giặc dữ đang săm soi ngoài ngõ
Bọn trông coi, trán bóng, nhếch môi cười
Cánh cửa tù mở toang đầy khách mới
Và lương tâm bị khóa chặt lại rồi
Không hiểu sao tháng tư buồn đến thế
Ba mươi tám năm, ba mươi tám tháng tư buồn
Một đất nước oằn mình trong đau đớn
Người nhìn người mà xót một quê hương
Vũ Bất Khuất
Công hàm 1958 : hậu quả của "tình bạn thiêng liêng, sông liền sông, núi liền núi" !
Đăng nhận xét