Lý Thái Hùng
Do đó mà việc kêu gọi hủy bỏ
công hàm này là mắc lừa chủ trương hiện nay của Bắc Kinh.
Tiến Sĩ Trần Công Trục đã chỉ
nói một phần ý nghĩa của Công hàm 1958, và là phần phụ, phần bao quát không bao
gồm ý nghĩa và hệ quả đích thực của Công hàm này.
Đó là lý do vì sao đến giờ
này Việt Nam vẫn chưa có những biện pháp cứng rắn hơn đối với những hành vi xâm
phạm ngày một gia tăng của Bắc Kinh trên Biển Đông.
Kẽ hở của Công hàm
1958
Đúng là Công hàm 1958 của Thủ
tướng Phạm Văn Đồng không đề cập gì đến Hoàng Sa hay Trường Sa.
Nhưng Công hàm đã viết:
"Chính phủ nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Chính phủ
nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc."
Tuyên bố ngày 4-9-1958 của
Trung Quốc đã viết:
"Chiều rộng lãnh hải của
nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý. Ðiều lệ này áp dụng cho toàn
lãnh thổ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất
liền và các hải đảo ngoài khơi, Ðài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ,
quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các
đảo khác thuộc Trung Quốc."
Dù giải thích thế nào đi nữa,
Công hàm 1958 vẫn đã thừa nhận chủ quyền Trung Quốc trên Biển Đông bao gồm luôn
quần đảo Hoàng sa và Trường sa của Việt Nam, và cho Trung Quốc lý cớ để cột
công hàm này vào nền tảng biện minh cho chủ trương xâm lược của họ hiện nay.
Nói cách khác, cái “thòng
lọng pháp lý của Bắc Kinh đang giăng sẵn” như mô tả của Tiến sĩ Trần Công Trục
chỉ có thể có được từ chính sợi dây thừng mà Công hàm 1958 đã cung cấp.
Trong bài viết, Tiến sĩ Trần
Công Trục cũng đã đề cập: “Việt Nam Cộng Hòa là một thực thể chính trị, một chủ
thể trong quan hệ quốc tế được quốc tế công nhận. Vì vậy, Việt Nam Cộng Hòa là
đại diện cho nhà nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam để quản lý và thực thi chủ
quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.”
Tôi tán đồng cách nhìn này và
vì thế Tuyên bố của Việt Nam Cộng Hòa vào ngày 4-2-1974 là một văn kiện quan
trọng để cho nhà cầm quyền Việt Nam hiện nay khai dụng trong việc tranh luận
với Trung Quốc về vấn để chủ quyền biển đảo.
Chính tư thế pháp lý của VNCH
năm 1974 đã nói lên giá trị của Tuyên Bố 4-2-1974 và do đó, trực tiếp hủy giá
trị của Công hàm 1958 trong “chiêu bài lập lờ đánh lận con đen cho tham vọng
bành trướng” của Bắc Kinh.
Công hàm này chỉ mang tính
ngoại giao trong bối cảnh của giai đoạn 1958 và càng không phải là một bản cam
kết giữa hai quốc gia.
Tiến sĩ Trần Công Trục đã
nhầm lẫn giữa một “diplomatic note” với một “bilateral agreement” khi viết
rằng: “theo luật pháp quốc tế nếu như một chính thể đã chính thức công nhận một
vấn đề thì không thể hủy bỏ đơn phương một cách đơn giản như vậy là xong. Tiền
hậu bất nhất là điều tối kỵ khi đưa một vấn đề tranh chấp ra các cơ quan tài
phán quốc tế”.
Hơn thế nữa, ngay cả một cam
kết giữa hai quốc gia cũng chỉ được tôn trọng trong bối cảnh ngày nào nó còn
bảo vệ được quyền lợi của cả hai quốc gia.
Ngày nào còn tránh né việc
công khai xác định với Trung Quốc sự sai trái về pháp lý và vô hiệu lực của
Công hàm Phạm Văn Đồng, thì ngày đó nhà quyền cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục
bị lúng túng trong sự giải thích lòng vòng, vừa khó thuyết phục được công luận
vừa cho Trung Quốc thấy thế yếu của Việt Nam.
Mặt trận pháp lý
Trong nhiều thập niên vừa
qua, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã chọn phương thức "ngoại giao”
để giải quyết các tranh chấp biển đảo đối với Trung Quốc. Đến nay thì phương án
này không những không hiệu quả mà còn gây nguy hiểm cho Việt Nam khi thời gian
kéo dài chỉ càng củng cố và có lợi cho các ý đồ bành trướng tiếp của Trung
Quốc.
Khi Trung Quốc ỷ thế lớn và
tìm cách gây chia rẽ nội bộ các nước trong khối ASEAN thì việc ASEAN có thông
qua Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) với Trung Quốc hay không cũng sẽ chỉ
mang giá trị hình thức.
Đã đến lúc Việt Nam cần mạnh
dạn tiến hành phương án đấu tranh pháp lý, tức kiện Trung Quốc ra tòa án trọng
tài Liên Hiệp Quốc như Philippines đã làm vì có khá nhiều điểm tương đồng.
Mặc dù Philippines không kiện
Trung Quốc về chủ quyền biển đảo, mà kiện Trung Quốc "áp dụng và giải
thích sai Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS)” như Tiến sĩ Trần
Công Trục phân tích, thì đó ít ra cũng là điểm khởi đầu cần thiết trong việc
dùng công pháp quốc tế buộc Trung Quốc phải “nói chuyện”, chứ không thể để họ
cố tình tránh né, phớt lờ như hiện nay.
Đương nhiên tiến hành một vụ
kiện cần phải nghiên cứu thật kỹ, nhưng không vì thế mà chần chừ quá lâu và
nuôi hy vọng quá nhiều vào việc ASEAN và Trung Quốc sẽ tiến hành tham vấn về Bộ
quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) như Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh tuyên bố hôm
đầu năm 2014.
Sức mạnh toàn dân
Vận dụng bằng ngoại giao hay
pháp lý để lấy lại chủ quyền biển đảo đã bị xâm chiếm là những phương thức cần
thiết nhưng chắc chắn là chưa đủ và khiếm diện.
So với nhiều quốc gia trong
khu vực, Việt Nam có ít nhất 138 chiến sĩ từ hai thể chế chính trị khác nhau đã
hy sinh trong cuộc chiến chống Trung Quốc xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa năm 1974
và Trường Sa năm 1988.
Nếu coi nỗ lực bảo vệ và lấy
lại chủ quyền các phần lãnh thổ, lãnh hải của cha ông là mục tiêu tối hậu, Việt
Nam cần vượt lên trên mọi khuynh hướng chính trị, mọi nhu cầu ngắn hạn của
những chính phủ đang cầm quyền.
Nhưng để thực hiện được ước
muốn tối thượng đó thì phải có nền tảng tối thiểu.
Nền tảng đó chính là sức mạnh
của Toàn dân.
Lịch sử Việt đã chứng minh
quá nhiều lần rằng không có cách nào khác.
Vì vậy, nếu thực tâm muốn bảo
vệ chủ quyền đất nước dựa trên nền tảng sức mạnh toàn dân, nhà cầm quyền cộng
sản Việt Nam cần phải:
Thả ngay những người yêu nước
đang bị giam giữ và tôn trọng quyền bày tỏ lòng yêu nước của người dân;
Thực hiện tinh thần Hội nghị
Diên Hồng bằng cách chấm dứt ngay chính sách độc quyền yêu nước;
Dẹp bỏ thái độ thù nghịch đối
với những tiếng nói xây dựng, ôn hòa vì quyền lợi của Tổ quốc.
Nói tóm lại, khi một phần
lãnh thổ, hải đảo đã bị nước ngoài xâm chiếm, trách nhiệm giành lại chủ quyền
không thể ủy thác vào chính quyền hay bất cứ một tập thể nào mà phải dựa trên
nền tảng toàn dân.
0 comments:
Đăng nhận xét