Nguyên nhân
căn cơ nhất làm mức độ tự tin và có ý thức sử dụng tối đa quyền công dân (sau
đây gọi tắt là ''Mức độ Tự tin'') của người dân Việt Nam còn thấp là vì:
đa số người dân - gồm cả dân thường và những người làm công chức trong bộ
máy nhà nước - không hiểu và/hoặc hiểu sai về những quyền cơ bản của con người
mà mình mặc nhiên được hưởng, về nhà nước pháp quyền, và về những nguyên tắc
pháp chế. Có lẽ chính các định nghĩa mang tính học thuật và luật học của các
khái niệm này đã làm cho chúng trở nên xa vời, rắc rối đối với quần chúng và cả
với công chức.
QUYỀN
CON NGƯỜI CƠ BẢN
Quyền cơ
bản của con người: đây
là những quyền mà con người ở bất kỳ nơi nào trên trái đất đều tự nhiên mà có
và không phải đợi bất kỳ một người nào khác hay tổ chức nào đó (kể cả nhà nước)
cho họ cả. Để diễn đạt tính chất mặc nhiên này, Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ
(1776) nói rằng: Thượng đế cho con người những quyền đó; còn Tuyên ngôn Độc lập
của Việt Nam
(1945) nói rằng: con người sinh ra đã có những quyền đó. Hay nói cách khác,
những quyền này thuộc phạm trù của vũ trụ quan - một sự sẵn có tự nhiên của thế
giới, chứ không phải của nhân sinh quan - do ai đó nghĩ ra, sáng tạo ra và sở hữu
chúng và có quyền cho, tặng chúng cho người khác hoặc lấy chúng lại. Do các
quyền đó là sản phẩm của vũ trụ quan - giống như các quy luật khách quan khác -
nên chúng hoàn toàn độc lập với ý chí chủ quan của con người, không thể bị thay
đổi bởi ý muốn của bất kỳ một ai hay tổ chức nào, và cũng sẽ không bao giờ thay
đổi bất chấp sự khác nhau về không gian và thời gian hoặc bất kỳ sự khác nhau
nào mang tính con người như màu da, giới tính, xuất thân, văn hóa, bản sắc, tôn
giáo, bối cảnh lịch sử, chế độ chính trị, v.v...
QUYỀN
BẤT KHẢ XÂM PHẠM
Chính vì
vậy mà những quyền căn bản của con người là bất khả xâm phạm - Không ai hay tổ
chức nào có quyền xâm phạm chúng cả. Và những quyền này đã được toàn nhân loại tôn trọng và
khẳng định một cách long trọng tại bản Tuyên ngôn Quốc tế về Quyền con người
của Liên Hiệp Quốc từ 1948, và được gọi chung là Nhân quyền. Tuyên ngôn này đưa
ra các nguyên tắc căn bản để xây dựng nên các điều khoản của những Công ước
Quốc tế về các Quyền kinh tế, xã hội và văn hóa và Công ước Quốc tế về các
Quyền dân sự, chính trị mà Việt Nam ta đã ký và thông qua vào 24/9/1982. Hai
công ước này đưa ra các quy tắc ứng xử bắt buộc và giống nhau về Nhân quyền đối
với các nước tham gia. Trong đó nêu rõ:''Nhân quyền phải được bảo vệ bằng
nhà nước pháp quyền để con người không bị bắt buộc phải dùng đến biện
pháp cuối cùng là nổi dậy chống lại chế độ cường quyền và áp bức''.
Cho nên ở
nước ta, theo tinh thần của Tuyên ngôn độc lập khi thành lập nước Việt Nam Dân
chủ cộng hòa và bởi các qui tắc của các công ước trên, tất cả các quyền căn bản
của con người trên đất nước Việt Nam đều được công nhận, tôn trọng và bảo vệ
bởi Hiến pháp (chương V, Hiến pháp 1992 hiện hành). Và vì vậy mà tất cả các
quyền về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa của công dân Việt Nam đã
mặc nhiên, tự nhiên, có sẵn từ lúc chào đời mà không cần đến sự cho phép của
bất kỳ bộ luật, hoặc văn bản luật nào khác dưới Hiến pháp. Và những quyền này
không hề khác với những quyền căn bản của con người mà công dân ở các nước khác
được hưởng cho dù có khác nhau về màu da, giới tính, xuất thân, tôn giáo, dân
tộc, v.v...; cho dù có chênh lệch đáng kể về mức độ dân chủ, công bằng, thịnh vượng,
văn minh; cho dù có khác biệt lớn về chế độ chính trị hay ý thức hệ, v.v... với
các nước này đi nữa.
THIÊNG
LIÊNG VÀ BÌNH ĐẲNG
Những quyền
này là thiêng liêng và tất yếu: sinh ra phải được bú, ngủ; lớn hơn chút thì
phải được ăn, bệnh phải được chữa; rồi được học, vui chơi; lớn đủ tuổi thì được
làm việc để mưu sinh; rồi lấy chồng vợ, sinh con đẻ cái và có quyền nuôi dạy
chúng; rồi quyền được duy trì và bảo vệ sự riêng tư của mình (xây chỗ ở, an
toàn thư tín, điện thoại, điện tín), rồi quyền đáp ứng nhu cầu tinh thần (phát
minh, sáng chế, sáng tác văn học, tự do ngôn luận, báo chí, lập hội, biểu tình,
...); rồi quyền bình đẳng trước pháp luật, v.v... Không chỉ thiêng liêng và
tất yếu, những quyền này còn là mặc nhiên, bình đẳng (ai cũng có như nhau) và không
cần bất kỳ sự cho phép nào cả, không phải đợi bất kỳ một điều luật nào
qui định cho công dân Việt Nam được thực hiện những quyền này cả.
QUYỀN
TẤT YẾU KHÁCH QUAN
Không có
bất kỳ một con người bình thường nào lại không muốn mình có được những quyền
này hoặc tự nhiên mà từ bỏ chúng cả. Điều này thể hiện tính chất tất yếu, khách
quan, hiển nhiên của Nhân quyền giống như các quy luật tất yếu khách quan của
vũ trụ mà không có bất kỳ một sức mạnh nào thuộc về con người có thể thay đổi
được. Sự cường quyền chỉ có thể ép buộc và tước đoạt các quyền này của con
người chứ không thể làm con người thôi mong muốn hoặc tự nhiên mà từ bỏ chúng
cả. Cũng giống như người ta có thể đắp chặn không cho nước đổ vào một chỗ nào
dưới thấp nhưng không bao giờ có thể thay đổi được tính chất tự nhiên của nước
là luôn đổ về chỗ trũng cho dù là nước ở châu Mỹ, châu Á hay châu Âu, hoặc ở xã
hội phong kiến, tư bản hay xã hội chủ nghĩa đi nữa.
Nhân
quyền là những quyền cơ bản của con người mang tính tự nhiên và tính quy luật
mặc nhiên khách quan của vũ trụ. Chính những quyền căn bản này hình thành nên con người và
tạo nên xã hội loài người, cũng giống như các nguyên tố hóa học tuần hoàn tạo
ra vật chất và thế giới vật chất vậy. Ai thay đổi được những quy luật này? Không
ai cả!
LÀM
NGƯỜI THÂN TỰ TIN
Tóm lại, tất
cả mọi người Việt Nam
chúng ta đều đã có tất cả mọi quyền công dân của mình qui định tại Hiến pháp và
được quyền sử dụng ngay các quyền đó mà không phải chờ đợi bất kỳ điều gì khác.
Chúng ta sử dụng các quyền này càng nhiều thì chúng ta càng được tôn trọng,
càng giàu có, càng ứng xử có văn hóa, và vì vậy mà xã hội càng dân chủ,
càng công bằng, càng thịnh vượng, càng văn minh. Cũng giống như nếu thiếu vắng
càng nhiều các nguyên tố hóa học thì vật chất do chúng tạo ra càng kém đa dạng,
thế giới vật chất của chúng càng nghèo nàn vậy.
Cho nên,
điều kiện tiên quyết để làm tăng mức độ tự tin là mỗi chúng ta cần làm cho
người thân hiểu đầy đủ quyền bất khả xâm phạm của mình để mạnh dạn sử dụng
chúng, đòi hỏi khi chúng thiếu vắng, phản ứng khi chúng bị xâm phạm.
BẢO VỆ
QUYỀN BẰNG LUẬT
Nhà nước
pháp quyền. Trước
hết cần phải hiểu pháp quyền là sự bảo vệ các quyền của công dân bằng pháp luật
(hiến pháp và luật). Các quyền này bao gồm những quyền căn bản của con người
(hay Nhân quyền như nói trên) và những quyền khác nữa mà đa số người dân muốn
có thêm. Đây vừa là tính chất vừa là ý nghĩa cốt lõi, căn bản của pháp quyền.
Có nhiều định nghĩa khác về pháp quyền nhưng đều là sự phát triển bổ sung từ
tính chất và ý nghĩa cốt lõi, căn bản này. Do vậy, nhà nước pháp quyền là một
kiểu nhà nước mà bản chất trên thực tế của nó đại diện cho từng người dân
thuộc mọi tầng lớp để bảo vệ mọi quyền công dân của họ, cho họ và vì họ bằng
pháp luật (gồm hiến pháp và các luật dưới hiến pháp). Điều này phù hợp với hai
công ước quốc tế về các quyền của con người mà Việt Nam đã ký và thông qua như nói trên
(quy tắc bắt buộc: ''Nhân quyền phải được bảo vệ bằng nhà nước pháp quyền'').
Hiến pháp
hiện hành (1992) của nước ta ghi rõ: ''Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân'' (Điều 2), và: ''Ở nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con
người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện
ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và Luật'' (điều
50). Đây rõ ràng là một sự tiến bộ và người dân Việt Nam chúng ta không những
được khẳng định và bảo vệ để có quyền sử dụng ngay tất cả các quyền căn bản của
con người quy định trong Hiến pháp và công ước quốc tế, mà còn có quyền đòi hỏi
thêm những quyền khác nữa. Và nếu những quyền mới này được đa số người dân đồng
tình thì chúng cũng sẽ được bảo vệ (chú ý là bảo vệ chứ không phải cho phép)
bằng những luật dưới Hiến pháp. Đây chính là sự mong muốn tốt đẹp của thuộc tính
''xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân'' của nhà nước pháp
quyền của chúng ta.
THÚC ĐẨY
CỦA NHÀ NƯỚC
Do vậy, chỉ
khi nào chúng ta sử dụng hết các quyền của mình như trên thì chúng ta mới có
thể ''Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch,
vững mạnh, thật sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân'' (nhiệm
vụ trên hết mà Chủ tịch nước Trương Tấn Sang khẳng định khi phát biểu nhậm chức
trước Quốc hội) được trên thực tế. Sự thiếu vắng việc sử dụng các quyền này
trong thực tế cuộc sống của người dân sẽ không thể giúp ''ngăn ngừa tệ
lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân'' (Phát biểu của Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa XIII mới đây) có hiệu
quả được. Tệ này chính là sự cường quyền mà đương nhiên tạo ra nạn tham nhũng.
Cho nên nếu
Nhà nước khẳng định rõ ràng những quyền của công dân theo Hiến pháp như trên,
đồng thời tuyên truyền rộng rãi và thường xuyên để thúc đẩy nhân dân sử dụng
những quyền đó, thì chắc chắn Mức độ Tự tin sẽ tăng cao nhanh chóng. Lúc đó
không những các mong muốn như trên của các vị sẽ mau chóng thành hiện
thực và đất nước cũng sẽ nhanh chóng đạt được dân chủ, công bằng, thịnh vượng,
văn minh. Và lúc đó chính quyền cũng không còn phải vất vả và tốn quá nhiều
nguồn lực để chống tham nhũng nhưng không hiệu quả như lâu nay.
CHẾ TÀI
BẰNG PHÁP LUẬT
Nguyên
tắc pháp chế. Vì
trách nhiệm phải bảo đảm cho người dân thực hiện được quyền công dân của mình
nên các nhà nước pháp quyền phải ngăn cản sự xâm phạm các quyền này từ bất kỳ
đối tượng nào khác. Cũng do tính chất pháp quyền nên các nhà nước pháp quyền
phải thực hiện việc ngăn cản này bằng luật pháp. Đây chính là ý nghĩa của pháp
chế, tức là chế tài bằng pháp luật. Điều này cũng phù hợp với nguyên tắc của
Tuyên ngôn Quốc tế về Quyền Con người: ''Khi thực hiện các quyền và tự do của
mình, mọi người chỉ chịu những hạn chế do luật định, nhằm mục đích duy nhất là
đảm bảo sự công nhận và tôn trọng và tôn trọng thích đáng đối với các quyền và
tự do của người khác cũng như đáp ứng các yêu cầu chính đáng và đạo đức, trật
tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ.'' (Điều 29.2)
Việc chế
tài bao gồm hạn chế và xử phạt. Do vậy công việc pháp chế xoay quanh việc hạn
chế và xử phạt sự xâm phạm giữa các loại đối tượng như sau:
- Ngăn cản
các cơ quan nhà nước và công chức xâm phạm quyền và lợi ích của công dân (tức
là chống lại cường quyền và tham nhũng).
- Ngăn cản
các công dân này xâm phạm quyền và lợi ích của những công dân khác (không được
bắt người khác làm nô lệ, không được giết người, trộm cắp, buôn người, ...)
- Bắt buộc
các công dân phải thực hiện một số các nghĩa vụ vì lợi ích chung (như nộp thuế,
nghĩa vụ quân sự, ...)
- Ngăn cản
các công dân xâm phạm đến quyền và các lợi ích chung (như cản trở công chức
đang thi hành công vụ vì lợi ích cộng đồng; phản bội Tổ quốc, khủng bố, diệt
chủng; hạn chế kinh doanh một số lĩnh vực như ma túy, ...)
Mọi sự chế
tài trên phải được qui định bằng luật. Không có luật để hạn chế một việc gì đó
thì có nghĩa rằng làm việc đó là không phạm luật và không cần phải xin phép ở
đâu cả, và cũng không cần phải có luật để cho phép làm việc đó. Trong
một nhà nước pháp quyền, bất kỳ một văn bản luật dưới hiến pháp nào mà qui định
công dân được phép thực hiện những quyền căn bản của con người đã được hiến
pháp ở đó thừa nhận và bảo vệ thì văn bản đó đã vi phạm nguyên tắc pháp quyền
của nhà nước đó, vi phạm hiến pháp của nó.
PHÁP CHẾ
CỦA VIỆT NAM
Trên đây là
những nguyên tắc pháp chế của một nhà nước pháp quyền. Những nguyên tắc này
được đảm bảo bởi Hiến pháp nước ta: ''Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật,
không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.'' (Điều 12). Thuộc tính xã
hội chủ nghĩa là để thể hiện tính ưu việt của những nguyên tắc pháp chế
mà nhà nước mong muốn. Nên nó chỉ có thể bổ sung làm tốt đẹp hơn cho những
nguyên tắc này chứ không thể thay đổi bản chất của chúng, càng lại không được
phủ định chúng, mà phải tuân thủ những nguyên tắc của một nhà nước pháp quyền
như nêu trên. Tuy nhiên, trong thực tế nước ta hiện nay đã có nhiều sự diễn
dịch thuộc tính XHCN dẫn đến làm sai lệch bản chất này, từ đó tạo ra không ít
các văn bản luật vi hiến.
QUAN
CHỨC VÀ PHÁP CHẾ
Do vậy, để
tăng được Mức độ Tự tin thì chúng ta cần đòi hỏi quan chức phải hiểu rõ và đảm bảo
đúng những nguyên tắc pháp chế XHCN theo đúng bản chất của một nhà nước pháp
quyền và lý tưởng tốt đẹp của xã hội XHCN. Cần yêu cầu các Đại biểu Quốc hội
phải bảo vệ và đảm bảo những đòi hỏi này của chúng ta phải được thực hiện trong
thực tế.
Nhân quyền
- Pháp quyền - Pháp chế: Chính bản chất và những nguyên tắc của 3 điều này liên hệ với nhau tạo
thành nguyên lý cốt lõi của một nền dân chủ: người dân có quyền làm bất kỳ
điều gì mà luật pháp không hạn chế và không cần phải xin phép để làm điều đó.
Ở các nhà nước pháp quyền tiến bộ, công chức không chỉ bị hạn chế để không được
làm một số việc đối với công dân mà còn chỉ được làm những gì luật pháp cho
phép. Đồng thời, thay vì xây dựng nhiều luật để hạn chế, các nhà nước này ưu
tiên làm ra luật để khuyến khích, tạo động lực cho người dân làm điều tốt để
hướng đến thực hiện những lý tưởng xã hội tốt đẹp.
TRÁCH
NHIỆM CỦA CHÚNG TA
Chúng ta
hoàn toàn có quyền và có lý do chính đáng để mong muốn và đòi hỏi nhà nước pháp
quyền của chúng ta phải được như thế. Không chỉ đòi hỏi, mà tích cực hơn nữa là
chúng ta cần phải chủ động, tự tin và có ý thức sử dụng tối đa các quyền công
dân của mình để xây dựng cho được một nhà nước pháp quyền như thế.
Tóm lại,
chúng ta sinh ra là đã có sẵn những quyền cơ bản của con người và cần phải tự
tin sử dụng chúng mà không cần phải xin ai cho phép cả (Nhân quyền); Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo vệ các quyền đó (Pháp quyền); và chúng
ta chỉ bị hạn chế làm những gì được qui định rõ trong luật pháp, chưa có luật hạn
chế tức là không có sự hạn chế chứ không phải chưa được phép, nếu chúng ta vi
phạm các hạn chế này thì chúng ta sẽ bị xử phạt (Pháp chế).
Ba điều này
tạo thành nền tảng của dân chủ, làm tốt 3 điều này chúng ta sẽ có một nền dân
chủ tốt (thực chất và bền vững). Điều thứ nhất - Nhân quyền - là quan trọng
nhất và mang tính quyết định. Cho nên, nếu chúng ta không sử dụng các
quyền con người cơ bản của mình thì sẽ không bao giờ có Nhân quyền trong thực
tế. Và do vậy cũng sẽ không thể có nền dân chủ thực chất, nên cường quyền
sẽ lấn át là đương nhiên. Do đó, trách nhiệm đầu tiên và trên hết thuộc về
chúng ta.
Rất mong
nhận được góp ý của quý vị. Xin chân thành cảm ơn!
Lê Thăng
Long
Người khởi
xướng phong trào Con đường Việt Nam
Xem thêm
NHÂN QUYỀN - PHÁP QUYỀN - PHÁP CHẾ tại đây
2 comments:
Rất đồng ý với ông Lê thăng Long, chúng ta cần thông tin cho mọi người biết để đừng bị hành xử tùy tiện.
BA MŨI GIÁP CÔNG, NHẤT ĐIỂM LƯỠNG DIỆN
Sau khi Nguyễn Phú Trọng, TBTCSVN, mở chiến dịch "CHỈNH ĐỐN ĐẢNG", một phái đoàn của BCT/TƯ đảng CSVN đi Canada và Hoa Kỳ để hỗ trợ Nguyễn Phú Trọng với cái gọi là "Triễn khai nghị quyết 36 với Việt Kiều, và Giải Thích Công Cuộc Chỉnh Đốn Đảng với các đảng viên CS và các Chi Bộ đảng ở nước ngoài", và tiếp sau phái đoàn nầy là việc ông Nguyễn thăng Long được csVN giảm án cho ra tù và đang bị quản chế tại địa phương, đã công bố thư kêu gọi và phổ biến Phong Trào "CON ĐUỜNG VIỆT NAM". Trong nội dung của hai tài liệu đó nêu khaí quát tình hình của VN về các mặt Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền, sự hình thành một Xã Hội Dân Sự, việc thực thi Pháp Trị và sự tin cậy hổ tương quan trọng giữa nhân dân - đảng - Chính Quyền cho mục đích hòa bình, thịnh vượng của đất nước. Ngoài ra không thấy đề cập đến đảng cộng sản là nguyên nhân tạo ra tình hình các mặt trong xã hội VN ngày càng tồi tệ, và vì vậy phải tìm một biện pháp giải quyết dứt khoát, rõ ràng có tính thuyết phục cao. Đây mới chính là mục đích của vấn đề mà lẽ ra phải được nhấn mạnh và triễn khai thật chi tiết bằng một kế hoạch khả thi trong "CON ĐƯỜNG VIỆT NAM", nhưng hoàn toàn thiếu vắng nên đã làm thất vọng mọi người còn tấm lòng với Quốc Gia Dân Tộc!
Từ những diễn biến liên hệ đến chính trị nói trên kèm theo Mục Tiêu Tranh Đấu của "Con Đường Việt Nam" không đáp ứng yêu cầu bức thiết hiện nay của nhân dân Việt Nam, đã cho phép người đọc liên nghĩ đến các kế hoạch mà cộng sản Việt Nam đã học được của cộng sản Trung Hoa để áp dụng ở VN trong cuộc chiến Bắc Nam trước 1975. Đó là:
-BA MŨI GIÁP CÔNG: 1- Chỉnh đốn đảng của TBT Nguyễn Phú Trọng. 2-Phái đoàn BCTCSVN triễn khai nghị quyết 36 và giải thích về Chỉnh Đốn Đảng ở hải ngoại. 3-"Con đường Việt Nam" của Lê thăng Long.
-NHỨT ĐIỂM LƯỠNG DIỆN. Lưỡng Diện: 1- Đảng viên. 2- Nhân Dân trong nước và ngoài nước. Nhứt điểm: Cứu nguy đảng cộng sản VN.
Như trên đã trình bày, thế tất phải có hoài nghi tư cách và thái độ chính trị của Lê thăng Long qua "Con đường Việt Nam", vừa chung chung thiếu thực tế, lại vừa mang nỗi bí ẩn của vấn đề bất khả thi đối với người tù chính trị về tội âm mưu lật đổ chính quyền cộng sản còn đang bị quản chế như ông Long.
Người Việt trong và ngoài nước đã trãi nghiệm nhiều thứ với cộng sản nên "kinh cung chi điểu" là đúng.
Đăng nhận xét