Phạm Hồng Sơn
Ngọn cờ chống ngoại xâm
Trong
tác phẩm nghiên cứu về Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN),Vietnamese
Communism 1925-1945 (Chủ nghĩa Cộng sản Việt Nam 1925-1945), khi đánh giá về
thành công của ĐCSVN trong việc giành được độc quyền về quyền lực trên toàn cõi
Việt Nam kể từ mùa Xuân năm 1975, tác giả Huỳnh Kim Khánh có nhận xét: “Thành
công đó, nghịch lý thay, lại phần lớn là do những nỗ lực của người Pháp và Hoa
Kỳ muốn dập tắt phong trào cộng sản ở Việt Nam.”[1] Nhận xét này có thể
làm nhiều người, nhất là người nước ngoài, ngạc nhiên nhưng chắc chắn đây không
phải là phát hiện mới mẻ đối với bản thân ĐCSVN.
Nhìn lại quá trình
phát triển của ĐCSVN cho đến nay có thể nói ĐCSVN là tổ chức chính trị đã thao
túng hoàn toàn ngọn cờ chống ngoại xâm cho mục đích đoạt được quyền lãnh đạo
độc tôn. Chúng ta thử cùng nhau xem lại một số sự kiện và văn kiện của Đảng hay
do Đảng chỉ đạo để thấy được sự “thao túng” đó đã diễn ra như thế nào.
Trong
Tuyên ngôn, Chương trình và Điều lệ được công bố rộng rãi vào tháng 10/1941,
Mặt trận Việt Minh đã kêu gọi: “… Hỡi tất thảy các
từng lớp đồng bào, hãy mau mau đoàn kết thống nhất chung quanh bản chương trình
trên đây để đánh Pháp đuổi Nhật giành lại quyền độc lập cho nước Việt Nam…”[2]
Trong
Thư kêu gọi Tổng Khởi nghĩa vào tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh đã viết: “Hỡi
đồng bào yêu quí! Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng
bào hãy đứng dậy đem sức ta mà giải phóng cho ta… Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá
cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên.”[3]
Nhưng
khi thấy việc để cho quân xâm lược Pháp quay trở lại Việt Nam sẽ có lợi cho
việc duy trì quyền lực độc tôn, trong đó có việc dễ dàng loại bỏ được các đảng
phái đối lập, ĐCSVN đã nhất quyết ký một Tạm ước với Pháp vào ngày
06/03/1946 bất chấp sự phản đối hay nghi ngại của
nhiều người. Và để làm các đảng viên hiểu rõ về mục đích của bản Tạm ước đó,
ngày 03/03/1946 ĐCSVN đã ra một chỉ thị nội bộ như sau: “Bên
trong về chính trị, hồi tháng 8 năm ngoái, dân tộc ta thống nhất hơn, các chính
đảng đối lập không có hoặc có mà không dám công nhiên phản đối. Bây giờ bọn đối
lập Việt Nam Quốc dân Đảng, đệ tam sư đoàn Việt gian thân Pháp dựa vào sức
ngoài hoạt động chia rẽ. Hồi tháng 8 ta lợi dụng được sự mâu thuẫn chia rẽ giữa
Tàu và Pháp. Bây giờ mâu thuẫn ấy đã tạm hòa hoãn… Chủ trương “đánh đến cùng”
lúc này không những làm cho ta cô lập và thực lực tiêu hao, lại vô tình sửa
soạn cho bọn Nguyễn Hải Thần nhảy lên địa vị “chuyên quyền”…”[4]
Nhưng sau khi các
đảng phái đối lập đã bị ĐCSVN tiêu diệt hoặc bị truy đuổi ra nước ngoài gần hết
và khi chỉ còn đối mặt với sự uy hiếp của Pháp thì ĐCSVN lại kêu gọi:
“Không!
Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không
chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên!… Giờ cứu nước đã đến. Ta
phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước.”[5]
Bản
Hiến pháp năm 1946, được Quốc hội thông qua ngày 9/11/1946, với lời nói đầu có
những câu như thế này: “… Sau hơn tám mươi năm tranh
đấu, dân tộc Việt Nam đã thoát khỏi vòng áp bức của chính sách thực dân, đồng
thời gạt bỏ chế độ vua quan. Nước nhà đã bước sang một quãng đường mới…”[6] Đặc biệt, trong 70
điều của bản Hiến pháp này không có một từ nào nhắc đến hay nói gì về vai trò,
công lao của bất kỳ một cá nhân, đảng phái hay tổ chức chính trị nào.
Nhưng
sau khi đã giành được toàn quyền trên miền Bắc từ vĩ tuyến 17 trở ra và trở
thành một thành viên trong Khối Xã hội Chủ nghĩa, ĐCSVN đã thay bản Hiến pháp
năm 1946 bằng một Hiến pháp mới (1959) với những lời mở đầu như sau: “Từ
năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, ngày nay là Đảng Lao
động Việt Nam, cách mạng Việt Nam đã tiến lên một giai đoạn mới. Cuộc đấu tranh
bền bỉ đầy gian khổ và hy sinh dũng cảm của nhân dân ta chống ách thống trị của
đế quốc và phong kiến đã giành được thắng lợi vĩ đại… Nhưng đế quốc Pháp được
đế quốc Mỹ giúp sức lại gây chiến tranh xâm lược hòng cướp nước ta và bắt nhân
dân ta làm nô lệ một lần nữa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân
Việt Nam và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, toàn thể nhân dân ta đoàn
kết một lòng đứng lên đánh giặc cứu nước… Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng
Lao động Việt Nam, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chủ tịch Hồ Chí
Minh, toàn dân ta đoàn kết rộng rãi trong Mặt trận Dân tộc Thống nhất, nhất định
sẽ giành được thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc và thực hiện thống nhất nước nhà.”[7]
Trên
cơ sở tâm lý dân tộc rất nhạy cảm, dễ thành kiến với sự hiện diện của binh lính
nước ngoài, tháng 9 năm 1960 trong Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ III,
ĐCSVN đã ra một nghị quyết phát động một cuộc chiến chống ngoại xâm mới – bao
hàm cả quyết tâm lật đổ một nhà nước khác của người Việt (một chế độ chính trị
đồng minh với Mỹ và đối lập với ĐCSVN) tại miền Nam, nghị quyết đó có đoạn: “Giải
phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện
thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.”[8]
Công
cuộc “giải phóng miền Nam” đó còn nhằm một mục
đích lớn hơn nữa, như Hồ Chí Minh đã xác định: “Cách
mạng Việt Nam là một bộ phận của lực lượng hòa bình dân chủ, xã hội chủ nghĩa
trên thế giới… Chúng ta có nhiệm vụ giữ vững vị trí tiền đồn của chủ nghĩa xã
hội ở Đông Nam Á, ra sức góp phần tăng cường lực lượng của phe xã hội chủ nghĩa
và bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và trên thế giới.”[9]
ĐCSVN
đã thực hiện thắng lợi công cuộc “giải phóng miền Nam” vào ngày 30/04/1975. Và
đây là cảm nghĩ của một người miền Nam[10]đã
hết sức ủng cuộc kháng chiến chống ngoại xâm đó, trong những ngày ngay sau
“giải phóng”: “Tôi bắt đầu cảm thấy sự tuyệt vọng ứ
lên, cảm giác còn kinh khủng hơn cả lúc tôi mới phát hiện ra tính hai mặt của Đảng
trong quan hệ với chúng tôi trong bao năm trời trước đó. Bây giờ tôi thực sự
mới biết được một cách cụ thể Đảng kiểm soát miền Nam như thế nào… Chỉ trong
một năm đầu sau ngày giải phóng, có khoảng 300.000 người bị bắt đi, con số này
chỉ tính đối với những người là sĩ quan, viên chức chính quyền hay lãnh đạo
đảng phái…“Ít nhất dưới chế độ ông Diệm, ông Thiệu, bọn ăn cắp ăn trộm vẫn còn
liêm sỉ. Còn người của Đảng bây giờ chả từ cái gì mà họ nhìn thấy.”, “Phải
chăng đuổi người Mỹ đi là sáng suốt? Bây giờ chúng ta lại ở trong sự o ép của
người Nga. Ít nhất khi người Mỹ ở đây chúng ta còn có cái mà ăn. Bây giờ có gì?
Tình đoàn kết quốc tế ư?””[11]
Năm
1980, khi vừa xảy ra xung đột đẫm máu giữa Đảng Cộng sản Việt Nam với Đảng Cộng
sản Trung Quốc, ĐCSVN đã cho làm lại hiến pháp với những câu đầu tiên đã được
sửa lại như thế này: “Từ năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đi con đường
của Cách mạng tháng Mười Nga, nhân dân ta đã lần lượt chiến thắng bọn đế quốc
Nhật, Pháp, Mỹ và bè lũ tay sai của chúng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân… nhưng lại phải đương đầu với bọn bá quyền Trung Quốc xâm lược cùng bè
lũ tay sai của chúng ở Campuchia. Phát huy truyền thống vẻ vang của dân tộc,
quân và dân ta đã giành thắng lợi oanh liệt trong hai cuộc chiến tranh bảo vệ
Tổ quốc chống bọn phản động Campuchia ở biên giới Tây-Nam và chống bọn bá quyền
Trung Quốc ở biên giới phía Bắc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ của mình.”[12]
Tuy
nhiên, sau cuộc gặp Thành Đô năm 1991,
lời nói đầu của Hiến pháp 1992 (và bản sửa đổi, bổ sung năm 2001) đã không còn
một từ nào nói hay ám chỉ đến “bọn bá quyền Trung
Quốc”
nữa, nhưng Đảng vẫn không quên nhấn mạnh: “Từ năm 1930, dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn
luyện… nhân dân các dân tộc nước ta đã liên tục chiến đấu, với sự giúp đỡ quí
báu của bè bạn trên thế giới, nhất là các nước xã hội chủ nghĩa và các nước
láng giềng, lập nên những chiến công oanh liệt, đặc biệt là chiến dịch Điện
Biên Phủ và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đánh thắng hai cuộc chiến tranh xâm
lược của thực dân và đế quốc, giải phóng đất nước, thống nhất Tổ quốc, hoàn
thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân.”[13]
Có
thể nói từ cuộc gặp Thành Đô trở đi Đảng đã dành cho “bọn
bá quyền Trung Quốc”
một đối xử hết sức nhân văn và cao thượng, không chỉ hoàn toàn “khép lại quá
khứ, hướng tới tương lai”mà còn kỳ công tẩy xóa cả những dấu tích liên quan tới ”thắng
lợi oanh liệt chống bọn bá quyền Trung Quốc ở biên giới phía Bắc”. Nhưng đó không phải
là cách ứng xử mà Đảng dành cho những người Việt không cùng quan điểm hay cho
kẻ thù cũ của Đảng hoặc cho lực lượng xâm lược đến từ phương Tây.
Trong
bản Cương lĩnh và Điều lệ của ĐCSVN vừa được thông qua tại Đại hội XI tháng Một
năm 2011, ngay từ dòng đầu tiên đã có những câu khẳng định lại công lao của
Đảng trong công cuộc chống ngoại xâm: “Từ năm 1930 đến nay,
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh
đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài… đập tan ách thống
trị của thực dân, phong kiến… giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.“[14] Và Đảng cũng không
quên nhắc đến việc phải “chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm
mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch”[15].
Nhưng chắc chắn các chữ “ngoại xâm” hay “thù địch” mà Đảng nêu trong hai văn
kiện có tính nền tảng đó không thể bao gồm chính quyền cộng sản Trung Quốc –
người “bạn vàng bốn tốt” của Đảng và cũng là chính quyền đang liên tục có những
hành vi xâm phạm chủ quyền Việt Nam – vì bản cương lĩnh mới mẻ đó đã dứt khoát
khẳng định: “Trước sau như một ủng hộ các đảng cộng
sản.”[16]
Như vậy, kể từ Hội
nghị Trung ương 08 vào tháng Năm 1941 tại hang Pắc Bó với việc quyết định thành
lập Mặt trận Việt Minh để tập hợp, thâu tóm các lực lượng trong nhân dân, Đảng
(lúc đó còn mang tên là ĐCS Đông Dương) đã luôn giương cao ngọn cờ chống ngoại
xâm và từ đó tới nay Đảng không chỉ chưa bao giờ quên ngọn cờ đó mà còn luôn
gắn chặt sự nghiệp chống ngoại xâm lẫy lừng của dân tộc vào vai trò lãnh đạo
duy nhất của Đảng. Không những thế Đảng còn tiến thêm một bước nữa là tự giành
lấy quyền xác định, điều chỉnh cho quốc gia nào trên thế giới là “ngoại xâm”,
là “kẻ thù không đội trời chung” hay là “bạn vàng” của toàn dân tộc bất kể
chính quyền hay quốc gia đó là thân thiện, hữu ích hay thù địch, bất lợi cho sự
tồn vong của dân tộc, sự toàn vẹn của chủ quyền đất nước.
Sự độc tôn quyền lực vĩnh viễn
Quá
trình phát triển của ĐCSVN suốt từ năm 1941 tới nay cũng cho thấy, về đối
ngoại, Đảng đã có một sách lược khá uyển chuyển, linh hoạt, kể cả phải nhượng
bộ, thay thù thành bạn hay đổi bạn thành thù với các chính phủ hay lực lượng
nước ngoài, nhưng chưa bao giờ thấy Đảng có biểu hiện nghĩ đến hay dao động
trong việc hợp tác, chia sẻ với người Việt có chính kiến khác Đảng trong việc
lãnh đạo đất nước kể từ khi Đảng nắm được hoàn toàn quyền lực[17].
Chúng ta cùng điểm qua vài sự kiện và một số dữ liệu:
Suốt
quãng thời gian từ năm 1944 đến khoảng thời gian sau khi kết thúc Chiến tranh
Thế giới thứ II, khi tiếp xúc với các lực lượng Đồng Minh (Mỹ, Anh, Nga, Trung
Hoa Dân quốc) người của Mặt trận Việt Minh (tức ĐCSVN) luôn thuyết phục các đối
tác quốc tế công nhận Việt Minh là tổ chức chính trị duy nhất đại diện cho
người Việt Nam[18] bất chấp sự tồn tại
của nhiều đảng phái chính trị và các nhóm chống Pháp, kháng Nhật khác của người
Việt Nam lúc đó[19].
Ngày
07/10/1945, khoảng một tháng sau khi tuyên bố thành lập chính phủ lâm thời, báo Cờ
Giải Phóng (một
cơ quan ngôn luận của ĐCSVN lúc đó) số 23, đã có bài viết với nhan đề “Phải
triệt ngay bọn Tơ-Rốt-Skít”. Sau khi đả phá và kết tội bằng những ngôn từ chủ
quan, hằn học, Cờ Giải Phóng kết luận: “Muốn
tránh cho cách mạng những thất bại đáng tiếc, đồng bào ta không thể không kiên
quyết tẩy trừ bọn tơ-rốt-skít.”[20] Và không lâu sau đó
ông Tạ Thu Thâu, thủ lĩnh của phái “Tơ-Rốt-Skít” Việt Nam (Đệ Tứ Cộng
sản, một nhánh khác của những người theo chủ nghĩa cộng sản nhưng khác với Việt
Minh), đã bị chết một cách bí ẩn – trùng hợp với những gì mà Hồ Chí Minh đã dằn
mạnh sau đó: “Tất cả những ai không theo con đường
tôi đã vạch đều sẽ bị tiêu diệt.”[21]
Không chỉ quyết giành
và giữ bằng được quyền lãnh đạo độc tôn, ĐCSVN còn tự xác định phải trở thành
một tổ chức thống soái – đứng trên, bao trùm và chi phối mọi hoạt động của cá
nhân và xã hội.
Trong
một tài liệu với đầu đề Vấn đề Đảng viết vào khoảng năm
1941, ĐCSVN đã xác quyết rất rõ: “Đảng là hình thức tổ
chức cao hơn hết. a. Sự khác nhau giữa tổ chức đảng và hội quần chúng: Đảng là
trung tâm điểm chỉ huy, hội quần chúng là những dây chuyền.”[22]
Chính
Hồ Chí Minh- lãnh tụ của ĐCSVN – cũng nói đến tính chất tối cao của Đảng như
thế, nhưng bằng những ngôn từ dung dị, cụ thể hơn: “Đảng
phải lãnh đạo tất cả các tổ chức khác của nhân dân lao động.”[23]
Về
mối quan hệ giữa Đảng và cá nhân hay các tổ chức, thiết chế khác trong xã hội,
Hồ Chí Minh cũng đã dặn dò các đảng viên của mình như thế này: “…
Nếu gặp khi lợi ích chung của Ðảng mâu thuẫn với lợi ích riêng của cá nhân, thì
phải kiên quyết hy sinh lợi ích của cá nhân cho lợi ích của Ðảng. Khi cần đến
tính mệnh của mình cũng phải vui lòng hy sinh cho Ðảng.”[24] Và Hồ Chí Minh khái
quát: “Muôn việc lấy Đảng làm gốc, Đảng là gia đình của
người cộng sản.”[25]
Về nhiệm kỳ lãnh đạo
đối với xã hội, đất nước, ngay từ năm 1941 ĐCSVN đã thẳng thắn như thế này:
“Đảng
là kẻ lãnh đạo vô sản kiến thiết đi đến cộng sản chủ nghĩa đến lúc hết giai
cấp, hết chính phủ thì đảng mới hết trách nhiệm.”[26]
Ý
chí thống soái xã hội, cũng như độc tôn quyền lực mãi mãi này của ĐCSVN thực ra
chỉ là sự tuân thủ, kế thừa đúng tính chất Lenin trong cái gọi là chủ nghĩa
Marx-Lenin – chủ nghĩa mà ĐCSVN từ trước đến tận ngày nay vẫn lấy làm “nền tảng
tư tưởng”. Theo Samuel P. Huntington[27],
học thuyết của Lenin (Leninism) nhằm “tạo ra một tổ chức của
những người cách mạng để lãnh đạo cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản. Sự trung
thành của các thành viên trong những lực lượng cách mạng tương lai đó phải vượt
qua hết thảy mọi lợi ích trước mắt của các lực lượng xã hội đó… Vì vậy tổ chức
chính trị – đảng – đã tự trở thành chí thiện và cứu cánh cho chính nó, nó cần
phải vượt lên hết tất cả những lương tâm, mong muốn của từng thủ lĩnh, thành
viên hay thành phần của xã hội. Đối với Lenin, sự trung thành tối cao không
phải thuộc về gia đình, dòng tộc, bộ lạc, quốc gia hay thậm chí cũng không phải
là giai cấp: mà là thuộc về đảng.”[28]
Như vậy trên cả ba
phương diện triết lý (lý luận) chính trị của Đảng, tư tưởng chính trị của lãnh
tụ sáng lập và thực tế cầm quyền, kể từ khi nắm được quyền lãnh đạo đất nước
(trên một nửa hay toàn đất nước Việt Nam) đến nay, ĐCSVN luôn chủ xướng và tìm
mọi cách để duy trì sự độc tôn về quyền lực và tính chất thống soái của mình và
dùng mọi cách để ngăn cản, triệt phá các lực lượng chính trị có quan điểm đối
lập hay chỉ đơn giản là các cá nhân, tổ chức có thể ảnh hưởng đến hai tính chất
độc tôn và thống soái đó.
Dĩ nhiên, tính chủ
nghĩa hay tính lý tưởng của học thuyết Marx- Lenin làm sao có thể sống sót được
ở những con người chỉ thích ngồi Mercedes hay chỉ dứt khoát gửi con cháu đi du
học ở Mỹ, ở Tây Âu nhưng cái lõi quyền lực chính trị độc tôn và những phương
pháp để duy trì sự độc tôn đó vẫn tỏ rõ là cái “dĩ bất biến ứng vạn biến” đối
với ĐCSVN.
Ngày
nay không còn ai nghe hay nhìn thấy những khẩu hiệu như “Vô sản các nước liên
hiệp lại” hay “Chủ nghĩa Mác-Lênin vô địch muôn năm” nhưng nếu Lenin sống lại
chắc sẽ phải sửng sốt khi nhìn thấy loại khẩu hiệu như thế này: “Công an nhân dân chỉ biết
còn Đảng còn mình”. Tính chất tối cao của Đảng, như Lenin dạy, chẳng
những không bị xa rời mà còn trở thành sự hăm dọa, cột chặt cuộc đời của đảng
viên vào Đảng.
Có
thể bối cảnh thế giới hiện tại với những bước tiến lớn của khoa học, công nghệ
không còn giúp cho Đảng duy trì tính thống soái dễ dàng như xưa kia nữa nhưng
việc Đảng vẫn chẳng từ ai, chẳng từ một thủ đoạn nào, từ tế nhị, thô thiển cho đến hoang dã, chỉ để
phá tan những khát khao tập hợp của người dân và cũng mới chỉ là những tập hợp
còn rất gần với Đảng hoặc còn tin Đảng chứ chưa phải là những tập hợp có tính
đối lập, là những điều cho thấy cái quán tính thống soái một cách man khai của
Đảng vẫn còn vô cùng nặng. Còn những quan điểm được Đảng đã phát ra rõ ràng và
liên tục như “bỏ Điều 4 là tự sát”, “kiên quyết không để hình
thành các tổ chức đối lập” hay “lực lượng công an là thanh
kiếm và lá chắn bảo vệ chế độ” thì chắc chắn người mơ mộng hay thích
đùa nhất cũng phải hiểu đó là những cảnh báo rất nghiêm túc rằng Đảng đến nay
(ít nhất là thế) không chấp nhận bất kỳ thách thức hay chia sẻ, cộng tác nào
đối với quyền lực độc tôn của mình.
Trên tấm thảm đỏ độc
tôn và thống soái đó, không biết đã có bàn chân nào nhích ra ngoài hoặc nhấc
nhẹ lên chưa, nhưng vẫn luôn thấy đủ tất cả các bàn chân, lớn bé, dài ngắn,
guốc giầy, Nam Bắc, thân hữu hay đối nghịch, của cái trung tâm quyền lực lớn
nhất của ĐCSVN – Bộ Chính trị.
Sự
kiên định, đồng thuận trên cái lõi độc tôn và thống soái đó đồng nghĩa với việc
Đảng sẽ còn chưa chịu chia sẻ “ngọn cờ chống ngoại xâm”– bảo bối cho quyền lực
độc tôn của Đảng. Do đó việc Đảng đã thể hiện dứt khoát không dung thứ, tán thành
những hành động yêu nước, chống ngoại xâm ngoài sự kiểm soát của Đảng là một logic. Quyết
tâm đó, ý chí đó sẽ còn tiếp tục chừng nào Đảng vẫn chưa thừa nhận nền chính
trị văn minh nhất, thanh thản nhất và được tôn trọng nhất là nền chính trị hợp
tác với những người có quan điểm khác biệt.
Thực tế còn cho thấy
quyết tâm đó của Đảng, không chỉ chưa thấy sa sút hay mệt mỏi, mà còn khá táo
bạo và tinh vi hơn. Chúng ta hãy cùng nhau xem ba thông tin nhỏ dưới đây:
Đó là kiến nghị đáng chú ý của cử tri
Long An được tổng hợp qua 21 cuộc tiếp xúc cử tri của Đoàn đại biểu QH Long An
gửi tới kỳ họp thứ 3 QH khóa XIII (dự kiến khai mạc vào 21-5 tới). Cụ thể, liên
quan đến diễn biến tình hình giải quyết tranh chấp trên biển Đông giữa Việt Nam
– Trung Quốc, cử tri đề nghị Nhà nước cần công khai cho nhân dân biết về chính
sách, đường lối chủ trương trong giải quyết vấn đề biển Đông. Ngành giáo dục
nên nghiên cứu đưa chủ quyền về Hoàng Sa – Trường Sa vào chương trình giảng dạy
trong nhà trường nhằm nâng cao nhận thức bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia của
thế hệ trẻ… (Pháp
luật TPHCM,
10.5.2012)
(2)
Báo Đại Đoàn kết – cơ quan ngôn luận của Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam đã đưa tin một cách trân trọng
về chuyến thăm Trường Sa do Chính phủ tổ chức, lần đầu tiên có Việt kiều,
trong đó nhiều người là cựu lính “ngụy” hay người của chế độ “ngụy” (như Đảng
vẫn gọi trên các phương tiện truyền thông của nhà nước trong dịp lễ 30/04 vừa
qua):
Có
những người con đất Việt vì nhiều lý do khác nhau, đã sống xa quê hương hơn 36
năm qua. Ngày trở về của họ, thật bất ngờ lại diễn ra trong một không gian,
thời gian đặc biệt: tại quần đảo Trường Sa. Nơi đây hằn sâu ký ức của biết bao
thế hệ tổ tiên người Việt trong việc gìn giữ, xây dựng và khẳng định chủ quyền
thiêng liêng của dân tộc. (Đại Đoàn kết, 08.5.2012)
(3)
Và đây là xúc cảm của một nhà báo Việt kiều Mỹ trong chuyến đi đó:
Với
Phó Nhòm Bolsa thì món cháo thật tuyệt vời. Vừa ăn cháo, vừa ngắm biển, ngắm
sao và vừa thương nhớ những người đã hi sinh và hãnh diện với quê hương trời
mây, đất biển bao la bát ngát. Vâng tôi ngồi đây bình an giữa trời bêỉn mênh
mông chính là những người đã “biết chết” để hi sinh bảo vệ quê hương và biển
đảo. Gương hi sinh đầy kiêu hãnh và anh hùng vậy mà đã bị những người hải ngoại
(một số nhỏ) cố tình xuyên tạc và im lặng không hề nhắc đến khi kết tội nhà
nước Việt Nam đã bán đất bán biển. Đất nước tôi kia, biển đảo tôi kia vẫn còn
đó ghi chiến công cuả những người đã hi sinh bảo vệ sao các anh nỡ lòng nào cố
tình xuyên tạc sự thật chỉ vì lòng ích kỷ nhỏ nhen vì hận thù chủ nghiã? Phó
nhòm Bolsa mong rằng những người hải ngoại vẫn còn tị hiềm xuyên tạc, hãy cho
mình một chút ít can đảm nên về một lần ra thăm Trường Sa cho biết. Nước còn đó
sao gọi là mất, nhà còn kia sao gọi là tan? Nước chưa mất nhà chưa tan, sao các
anh chị không về gom góp một bàn tay xây dựng cho thế hệ mai sau?(KBC
Hải ngoại,
19.5.2012)
Trong
khi đó những người Việt khác như bà Phạm Thanh Nghiên,
ôngNguyễn Văn Hải (Điếu Cày),
ông Nguyễn Xuân Nghĩa,
ông Cù Huy Hà Vũ
hay ông Việt Khang… vẫn chưa biết ngày nào sẽ được
rời khỏi nhà tù để về nhà chấp hành “quản chế tại nơi cư trú” hoặc, đơn giản
hơn nữa, chỉ mỗi việc xuống đường để thể hiện lòng yêu nước, bày tỏ sự bức xúc,
phản kháng một cách ôn hòa trước sự xâm phạm của Trung Quốc vẫn còn là một việc
đầy hồi hộp, lo âu cho sự an nguy và bình yên của cá nhân và gia đình.
Nay
anh không về, đừng lo nhé nghe em
Hãy cứ coi như anh đi làm trả nợ
Nợ của Vua Hùng, nợ từ tiên tổ
Cho chúng mình non nước Việt hôm nay.
Hãy cứ coi như anh đi làm trả nợ
Nợ của Vua Hùng, nợ từ tiên tổ
Cho chúng mình non nước Việt hôm nay.
Có
gì đâu, anh đi vắng một ngày
Hay thêm nữa, làm sao mà sợ hãi
Anh tắm gội, cạo râu, thay quần áo mới
Nhỡ có bề gì, đỡ vất vả cho em.
Hay thêm nữa, làm sao mà sợ hãi
Anh tắm gội, cạo râu, thay quần áo mới
Nhỡ có bề gì, đỡ vất vả cho em.
Tiền
đừng lo, còn đồng đội thân quen
Anh ở nơi đâu, bạn cũng tìm ra được
Có kết tội, tội anh là yêu nước
Chẳng bạo tàn nào ngăn cản được em ơi.
Anh ở nơi đâu, bạn cũng tìm ra được
Có kết tội, tội anh là yêu nước
Chẳng bạo tàn nào ngăn cản được em ơi.
Đừng
cho anh nói gở, ngắt ngang lời
Thời buổi nhiễu nhương, điều gì mà không thể
Anh “về muộn” mấy lần, dẫu em lo đến thế
Thêm một lần thì cũng có sao đâu.
Thời buổi nhiễu nhương, điều gì mà không thể
Anh “về muộn” mấy lần, dẫu em lo đến thế
Thêm một lần thì cũng có sao đâu.
Cả
một thời tuổi trẻ đã qua mau
Lo trấn ải, quên rằng mình bạc tóc
Giờ lại lũ giặc quen từ phương Bắc
Hãy để anh đi, còn chút sức cuối cùng.
Lo trấn ải, quên rằng mình bạc tóc
Giờ lại lũ giặc quen từ phương Bắc
Hãy để anh đi, còn chút sức cuối cùng.
01/7/2012
Nguyễn Tường Thụy
Đó
chỉ là tự sự của một người Việt Nam
chuẩn bị rời nhà để đi biểu tình chống sự ngang ngược
của Trung Quốc vào lúc 08:00 ngày 01/07/2012 ngay tại Hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội vừa
rồi. Còn đây là lời động viên của một người khác trước giờ “G” đó:
Ngày mai sẽ có các nhân sỹ trí thức Hà
Nội tham gia rất đông… Kính đề nghị bà con và nhất là các bạn trẻ hãy áp sát để
bảo vệ các bác trí thức lớn tuổi…
Khi tập hợp lực lượng, đề nghị mọi người chưa tung biểu ngữ ra ngay, chưa hô to gì cả… hay đi vòng vòng quan sát liên tục… công an sẽ không thể bắt mọi người nếu không hô và chăng cờ… chỉ đến khi tạp hợp thành một đoàn người thật đông cỡ 200-300 người… lúc đó mới đồng loạt chiến…
Nếu công an xông vào bắt một ai đó…. hãy dùng số lượng lớn xúm vào cứu… cứu người là cứu mình…
Hãy dũng cảm lên bà con!
Khi tập hợp lực lượng, đề nghị mọi người chưa tung biểu ngữ ra ngay, chưa hô to gì cả… hay đi vòng vòng quan sát liên tục… công an sẽ không thể bắt mọi người nếu không hô và chăng cờ… chỉ đến khi tạp hợp thành một đoàn người thật đông cỡ 200-300 người… lúc đó mới đồng loạt chiến…
Nếu công an xông vào bắt một ai đó…. hãy dùng số lượng lớn xúm vào cứu… cứu người là cứu mình…
Hãy dũng cảm lên bà con!
Hai động thái tiến bộ
Như vậy, cả về lý
luận, truyền thống, lẫn thực tế hiện thời, ĐCSVN vẫn coi lòng yêu nước, tinh
thần chống ngoại xâm của nhân dân chỉ là một công cụ cho quyền lực độc tôn của
Đảng và Đảng vẫn đang cố hết sức cho mục đích đó bằng nhiều thủ thuật, thủ đoạn
khác nhau. Nhưng công bằng, chúng ta phải thừa nhận trong cái tinh thần “thủ
đoạn” đó, ĐCSVN đã có hai động thái tiến bộ trong thời gian vừa qua.
Thứ nhất, ĐCSVN vừa
tạo ra một văn bản chính thức, công khai khẳng định chủ quyền Hoàng Sa, Trường
Sa: Luật Biển. Thứ hai, các quan hệ với Mỹ đang có chiều hướng ngày càng được
mở rộng và chặt chẽ thêm.
Về Luật Biển: Trong một chế độ
độc tài, như Montesquieu đã nhận xét cách đây gần 300 năm hoặc như thực tế Việt
Nam đã chứng tỏ, mọi tuyên bố thành văn hay không thành văn của kẻ cầm quyền
đều rất ít có giá trị để cho ta tin cậy. Hơn nữa, dù ý nghĩa, tầm quan trọng
của việc thực hiện Luật Biển như thế nào cũng không thể so được với ý nghĩa,
tầm quan trọng của việc thực hiện Hiến pháp (luật mẹ của các luật khác) – những
điều mà cho đến nay ĐCSVN vẫn luôn bất chấp. Nhưng Luật Biển ít nhất cũng thể
hiện ý chí nói chung của ĐCSVN đã có một thay đổi theo chiều hướng tự tin hơn
(hoặc ít hèn yếu hơn) trong quan hệ với Trung Quốc. Khi sự tự trọng được nhen
nhóm lại hoặc được coi trọng hơn thì bất kể con người đó là ai và trước đó như
thế nào đều là biến đổi tích cực cho chính bản thân cá nhân đó và cho tất cả
các mối quan hệ liên đới khác – bạn hữu, ruột thịt hay giữa kẻ thống trị và
người bị trị. Quan hệ với một người còn ít nhiều sự tự trọng luôn là điều đỡ
bất trắc và dễ chịu hơn nhiều so với những kẻ đã vứt hết hay không để ý gì đến
hai chữ tự trọng. Dĩ nhiên sự tích cực đó vẫn còn hoàn toàn nằm trong màn đêm
đầy toan tính của hai chữ “thủ đoạn” chừng nào ĐCSVN còn coi lòng yêu nước,
tinh thần chống ngoại xâm của nhân dân chỉ là một công cụ cho sự độc tôn quyền
lực của mình.
Về quan hệ với Mỹ: Nhìn lại lịch sử
ngoại giao của ĐCSVN, có thể thấy ĐCSVN có truyền thống không được các đối tác
quốc tế tin cậy, kể cả “anh cả” hay người bạn “răng môi” trong phe Xã hội Chủ
nghĩa cũ cũng chỉ coi Việt Nam (đúng hơn là ĐCSVN) như một con cờ để sử dụng chứ
không phải là đối tác được tôn trọng.[29] Hơn nữa việc tìm kiếm
một sức mạnh từ nước ngoài (Mỹ) trong việc đối phó với những đe dọa từ Trung
Quốc nhưng lại coi khinh một sức mạnh nền tảng và luôn vô địch trong mọi cuộc
chiến chống xâm lăng là Nhân dân thì sự tìm kiếm đó đã tự bộc lộ chỉ là một thủ
đoạn để giữ quyền lực cho riêng ĐCSVN mà thôi. Nhưng dù thế nào thì việc ĐCSVN
đã xúc tiến nhiều hoạt động có chiều hướng thắt chặt hơn với Mỹ – một quốc gia
không chỉ mạnh về sức mạnh vật chất và quân sự mà, và là điều quan trọng hơn,
còn là một nhà nước cộng hòa (hiện đại) đầu tiên, là một trong những nền dân
chủ trưởng thành, vững chắc nhất của thế giới, là một chiều hướng tiến bộ. Ít
nhất ĐCSVN, và đương nhiên cả xã hội Việt Nam, sẽ có cơ hội gần gũi hơn với nền
văn minh dân chủ, cũng đồng nghĩa với việc tránh xa hơn nền văn minh kiểu “ăn
thịt người” hay nền chính trị kiểu “Siberie”. Nhưng tất cả những cơ hội tiến bộ
(còn nhiều ở dạng tiềm năng) đó có thể sẽ trở nên vô dụng nếu ĐCSVN không dứt
được hẳn với truyền thống “hai mặt” trong quan hệ ngoại giao. Dĩ nhiên trong
mọi quan hệ, các kỹ thuật giao tế và sự cẩn trọng để tránh bị lợi dụng, hiểu
lầm hay coi thường luôn là điều cần thiết, nhất là khi còn ở một vị thế yếu kém
hơn hẳn gần như về tất cả mọi mặt. Nhưng sự chân thành là cái tối thiểu cần
phải có cho một mối quan hệ đứng đắn. Nhưng, rất đáng tiếc, với nhữngthông tin như kiểu sau đây thì làm sao có thể
khiến người khác nghĩ tới được sự chân thành:
Lịch
sự kiểu “Huê Kỳ”
Ngay
sau khi xác định được đối thủ trong cuộc đua song mã quyết liệt, ông B.Ô-ba-ma
đã gọi điện thoại “chúc mừng” ông M.Rôm-ni. Nhưng rồi, lập tức đội ngũ tranh cử
của ông Ô-ba-ma bắt đầu công kích mãnh liệt vào các điểm yếu cốt
lõi của đối thủ đảng Cộng hòa, như khi là chủ doanh nghiệp đầu tư, ông
M.Rôm-ni đã sa thải công nhân một cách không thương tiếc hay còn “khờ khạo”
trong lĩnh vực đối ngoại…
Ðáp
lại, Ủy ban tranh cử của Ðảng Cộng hòa đang tìm mọi cách tô vẽ hình ảnh một ông
Ô-ba-ma không thể điều hành nền kinh tế lớn nhất thế giới, đã phung
phí tiền của người đóng thuế và rằng ông Ô-ba-ma là người sinh ra ở nước ngoài,
không đáp ứng điều kiện tối thiểu ra tranh cử Tổng thống Mỹ…
Vì
một chiếc ghế ông chủ Nhà trắng, hai gương mặt sáng giá nhất nước Mỹ “vạch áo”
lẫn nhau, công kích và chê bai nhau. Cử tri Mỹ liệu có suy nghĩ gì về người
lãnh đạo cao nhất của đất nước mình trong bốn năm tới(!?) Rõ là lịch sự kiểu
“Huê Kỳ”. (Nhân dân, báo giấy ngày
01.6.2012)
Thiếu
sự chân thành, quan hệ, dù phát triển đến đâu, cũng sẽ chỉ quẩn quanh trong tấm
lưới âm mưu và lợi dụng. Đương nhiên dư lợi chung cuộc không bao giờ thuộc về
người thiếu chân thành và lại ít thông minh hơn – vì lại nghĩ có thể thao túng,
lợi dụng được người đã đi trước mình hàng thế kỷ.[30]
Nhưng tính hai mặt,
sự thiếu chân thành của ĐCSVN trong quan hệ với Mỹ là điều tất yếu chừng nào
ĐCSVN còn chưa chia tay với triết lý chính trị độc tôn, và hệ quả tất yếu, còn
sợ các giá trị dân chủ và chống lại các quyền cơ bản của nhân dân mình.
Tinh thần chống ngoại xâm và tinh thần
dân chủ
Trong một đất nước mà
trường lịch sử hàng ngàn năm gần như chỉ là sự nối tiếp của các cuộc kháng
chiến chống ngoại xâm hay đối với một dân tộc mà sự tự hào gần như duy nhất có
thể làm cho mọi dân tộc khác phải nín lặng, nhưng chưa chắc đã kính nể, là đã
“chiến thắng mọi đế quốc hùng mạnh nhất thế giới”, thì sẽ không có gì ngạc
nhiên nếu như tinh thần chống ngoại xâm là thứ tình cảm có khả năng lớn nhất
trong việc huy động sức mạnh hay sự đoàn kết của toàn dân tộc.
Nhưng
nếu như tinh thần chống ngoại xâm trở thành cái duy nhất có thể gắn kết chặt
chẽ nhất, có thể huy động được nhiều nhất sức mạnh của một dân tộc thì đó là
một điều rất quan ngại. Vì tinh thần chống ngoại xâm luôn là một thứ tinh thần
thụ động. Trong một thế giới luôn biến động với vô vàn các yếu tố ngoại lai
không thể lường trước và với một đặc tính bất biến là luôn cạnh tranh thì tinh
thầnchống không thể là tinh
thần chủ động hay thuận lợi cho phát triển. Cho dù là cá nhân hay dân tộc thì
việc bảo vệ, bảo toàn những chủ quyền của mình trước sự đe dọa hay xâm phạm chủ
quyền cũng đều là một trong những việc hệ trọng, cấp bách nhưng nếu chúng ta
chỉ nghĩ đến chống, chỉ nơm nớp lo sợ bị xâm lấn, cướp đoạt hay lúc nào cũng
nghi kỵ, sợ hãi sự xâm lấn từ bên ngoài thì cá nhân hay dân tộc đó không thể
phát triển được hết tiềm năng của bản thân. Cá nhân hay dân tộc như thế có thể
vẫn trường tồn, không bị tiêu diệt, nhưng không thể là một cá nhân hay một dân
tộc tự tin. Vậy vấn đề chính không phải là tinh thần chống mà là tinh thần phải
làm sao để trong sự tương tác, va chạm với thế giới phong phú, đa dạng với đặc
tính bất biến cạnh tranh (chế ước, kiểm soát, kìm hãm thậm chí lấn át, thôn
tính lẫn nhau) như thế các yếu tố ngoại lai khó có thể trở thành yếu tố xâm hại
hay thù địch với bản thân. Chỉ khi đó cá nhân hay dân tộc đó mới có thể tồn tại
một cách tự tin, mạnh mẽ.
Nhìn
vào lịch sử của riêng Việt Nam chúng ta cũng thấy mọi cuộc xâm lấn từ phương
Bắc hay từ phương Tây đều chỉ là hệ quả của một hoặc hai vấn đề (nguyên nhân)
chính: 1. Nội lực quốc gia suy yếu. 2. Chính sách ngoại giao thiếu khôn ngoan.
Và chừng nào nếu còn nguy cơ cho một trong hai nguyên nhân này thì trước sau
kiểu gì, trong một thế giới cạnh tranh là mãi mãi, cũng sẽ có chiến tranh với
nước ngoài hoặc bị nước ngoài xâm lấn, khống chế. Nghĩa là nếu muốn không có
ngoại xâm hoặc muốn không phải liên tục chống ngoại xâm thì Việt Nam phải quyết
tâm xây dựng được một thể chế chính trị, một xã hội mà mọi trí tuệ của dân
chúng phải được khuyến khích, tham khảo, sử dụng cho việc chung, bất kể nguồn
gốc, địa vị, sắc tộc hay chính kiến. Cho đến nay, nhân loại mới chỉ tìm thấy
một mô hình chính trị đáp ứng được những đòi hỏi đó. Đó là thể chế chính trị
dân chủ, hay một cách chuyên môn hơn là thể chế Dân chủ Tự do (liberal democracy). Dĩ nhiên đạt được thể chế
chính trị đó không thể là chuyện dễ dàng hay có thể thực hiện trong sớm chiều
nhưng đó phải là đích đến của chúng ta. Chỉ khi đó chúng ta mới có thể có được
hay giành lại được những quyền được nói, được viết, được đi lại, được gặp gỡ,
bàn luận, được tổ chức, được cùng nhau chia sẻ đức tin, thổ lộ những khao khát
riêng chung, hay bày tỏ những bức xúc của con người một cách tự do. Ít nhất như
thế chúng ta mới có thể làm cho sự lên xuống của những người lãnh đạo quốc gia
phải chạy theo sự dao động của lá phiếu trong tay ta chứ không phải lá phiếu
được nhét vào tay ta cứ phải bám theo họ hoặc chỉ là những mảnh giấy vô giá
trị. Dưới ánh sáng văn minh của nhân loại ngày nay chúng ta cần phải đồng thuận
thừa nhận rằng giá trị của một tờ báo tư nhân hay một quyền được tự do hội họp
cũng không kém giá trị của một hòn đảo, một vùng lãnh thổ của tổ quốc. Chúng ta
phải cùng nhau nhận rõ một qui luật đã hiển nhiên là sự trói buộc hay thương
yêu của quyền lực độc đoán nội tộc cũng nguy hiểm không kém sự hung hãn hay vỗ
về của những kẻ xâm lược ngoại bang. Chỉ khi nhận thức được như thế đất nước
mới có thể có một nội lực đủ mạnh làm chùn mọi ý đồ xâm lấn từ ngoại bang và
chính quyền mới có thể đủ sáng suốt, đủ tử tế để không phớt lờ hay chống lại ý
muốn bảo toàn danh dự, giữ vững chủ quyền của chúng ta. Chỉ khi đó chúng ta mới
không phải rón rén, lén lút hay lạy lục, van xin, khôn khéo để được yêu nước,
để được bày tỏ phẫn uất đối với quân xâm lược.
Với
tình hình thời sự hiện nay, khi nhìn vào nhóm các nước[31] đang phải đối mặt
trực diện với tham vọng bá quyền của Trung Quốc như Việt Nam, Nhật Bản, Hàn
Quốc, Đài Loan, Philippines, Indonesia, Malaysia, thì chỉ thấy Việt Nam là nước
tỏ ra lúng túng nhất, yếu ớt nhất và bị sỉ nhục nhất. Sự khác biệt đó cũng rất
tương hợp với mức độ dân chủ của chế độ chính trị ở các nước đó: Việt Nam là
nước duy nhất trong nhóm bị xếp hạng là phi dân chủ (độc tài). Ngay
Philippines, một nước có nền dân chủ yếu nhất[32] (trong số những nước
còn lại), cũng đã tỏ ra chủ động và tự tin hơn rất nhiều Việt Nam trong việc
đối phó với những hăm dọa từ Trung Quốc. Như thế, chính chế độ dân chủ đã làm
cho các quốc gia nhỏ bé trở nên mạnh mẽ, không bị cô lập trước sự đe dọa của
Trung Quốc chứ không phải vị trí địa lý hay truyền thống chống ngoại xâm hào
hùng. Một cách ngắn gọn có thể nói rằng Dân chủ không sợ Trung Quốc hay Trung
Quốc không thể làm gì được Dân chủ.
Do
đó, điều cơ bản muốn bảo toàn được chủ quyền quốc gia một cách chủ động, bền
vững, muốn đất nước, dân tộc phát triển, hưng thịnh và luôn đủ khả năng để đối
phó, hóa giải một cách chủ động mọi yếu tố xâm hại từ bên ngoài thì cần phải
thay đổi triệt để quan niệm, tinh thần từ chống ngoại
xâm sang
tinh thần xây dựng dân chủ. Đương nhiên trong
những tình thế cấp bách, tinh thần chống ngoại xâm phải được đặt lên hàng đầu
nhưng xét về lâu dài, và có thể ngay cả những lúc cấp bách, tinh thần dân chủ
vẫn phải là tinh thần xuyên suốt và cơ bản nhất. Hơn nữa, tinh thần dân chủ không
chỉ giúp cắt rời được những lợi dụng, thao túng của các thế lực cầm quyền dân
tộc độc đoán như đã và đang xảy ra mà còn giúp cho tinh thần dân tộc tránh được
những cực đoan, giúp dễ dàng cho sự hội nhập, biết tôn trọng, tiếp thu các dị
biệt của các cá nhân, các dân tộc khác để cùng sống hòa bình và đóng góp tích
cực cho sự phát triển chung của nhân loại.
Dĩ nhiên, việc chuyển
đổi tinh thần cơ bản của dân tộc từ chống ngoại xâm sang xây dựng dân chủ không
thể là một quá trình dễ dàng. Sự nan giải đó bởi hai lý do chính. Thứ nhất,
tinh thần chống ngoại xâm không chỉ là một truyền thống sâu đậm từ hàng ngàn
năm qua mà tinh thần này vẫn được đào luyện, thao túng thêm bởi chế độ chính
trị hiện tại. Lý do thứ hai, có thể còn khó khăn hơn lý do thứ nhất, vì tinh thần
chống ngoại xâm là thứ tinh thần xuất phát chủ yếu từ tình cảm tự nhiên của con
người, còn tinh thần dân chủ lại là thứ tinh thần, ngược lại, gần như hoàn toàn
thuộc về lý trí, là thứ tinh thần đòi hỏi phải có sự chủ động, khổ công tìm
hiểu, đào luyện về kiến thức và tư duy dân chủ. Nhưng vấn đề chuyển đổi tinh
thần đó cũng không phải là việc thay thế hoàn toàn tình cảm chống ngoại xâm
bằng lý trí dân chủ mà chỉ là cần phải bổ sung thêm và tạo cho tình cảm yêu
nước, chống ngoại xâm một nền tảng lý trí, một sự hiểu biết thấu đáo về dân
chủ. Một tình cảm yêu nước hay một tinh thần chống ngoại xâm được tựa vững trên
một nền tảng dân chủ, một tinh thần dân chủ. Đó có thể gọi là công thức chung
cho tất cả các quốc gia văn minh, tiến bộ và bền vững nhất hiện nay.
Nếu nhìn vào công
thức đó, người Việt chúng ta cũng có thể tự hào rằng trong di sản của cha ông
để lại cũng đã có một tư tưởng như thế. Đó chính là tư tưởng của Phan Chu Trinh
(1872-1926).
Có
thể nói trường lịch sử chống ngoại xâm hàng ngàn năm của Việt Nam từ thời lập
quốc cho đến tận giữa thế kỷ 20, Việt Nam chỉ duy nhất có một người xem xét
công cuộc bảo vệ, giành lại độc lập cho đất nước từ tay ngoại xâm hoàn toàn
bằng lăng kính dân chủ. Đó là Phan Chu Trinh. Năm 1925, Phan Châu Trinh đã chỉ
ra lý do căn bản của cái lịch sử triền miên mất nước của Việt Nam: ”Một
nước bao nhiêu triệu dân mà chỉ giao phó quyền chính cho một ông vua thì chẳng
là ngu xuẩn lắm ư? Gặp được ông vua thông minh còn lo chưa hết bổn phận thay,
huống là gặp phải anh vua u mê làm ròng những sự độc ác, cấm dân có ăn học
không được lo việc nước, thì dân khốn khổ biết bao, và còn có ai dám ra mà gánh
vác Một nhà không ai lo chủ trương, một nước không ai lo chủ trương, thì nhà
nước ấy làm sao mà không tan không mất được.”[33] Và Phan Chu Trinh đã
gợi ra cái điều hệ trọng nhất cần phải thay đổi nếu muốn thoát khỏi tình trạng
mất nước triền miên đó: “… Còn như theo cái chủ nghĩa dân
trị, thì tự quốc dân lập ra hiến pháp, luật lệ, đặt ra các cơ quan để lo việc
chung cả nước, lòng quốc dân muốn thế nào thì làm thế ấy. Dù không có người ta
giỏi làm cho hay lắm, cũng không đến nỗi phải đè đầu khốn nạn làm tôi mọi một
nhà, một họ nào. Xét lịch sử xưa, dân nào khôn ngoan biết lo tự cường tự lập,
mua lấy sự lợi ích chung của mình, thì càng ngày càng bước tới con đường vui
vẻ. Còn dân nào ngu dại, cứ ngồi yên mà nhờ trời, mà mong đợi trông cậy ở vua ở
quan, giao phó tất cả những quyền lợi của mình vào trong tay một người, hay là
một chính phủ muốn làm sao thì làm, mà mình không hành động, không bàn luận,
không kiểm xét, thì dân ấy còn khốn khổ mọi đường.”[34]
Sinh thời Phan Chu
Trinh rất tâm đắc với những suy nghĩ, tư tưởng như thế này:
“Quí
quốc không phải lo không có ngày độc lập mà chỉ lo quốc dân không đủ tư cách
độc lập.”,
“Kế hoạch giành lại nước mấu chốt có mấy điều nhưng thực lực
trong nước là chủ yếu.”, “Quí quốc chớ lo không có cơ hội độc lập
mà chỉ lo không có nhân tài và không chụp được cơ hội.”[35]
Chính
vì có tư tưởng như thế mà Phan Chu Trinh đã phản đối quan điểm phải giành ngay
độc lập từ người Pháp bằng mọi giá của những người như Phan Bội Châu[36] hay anh thanh niên
Nguyễn Tất Thành (tức Hồ Chí Minh sau này)[37] Những biến động lịch
sử gần một trăm năm qua tại Việt Nam và thế giới đã cho thấy quan điểm, tư
tưởng của Phan Chu Trinh là đúng đắn và hết sức sáng suốt.
Như vậy, dù cho quá
trình chuyển hóa tư tưởng, tinh thần cơ bản của dân tộc từ “chống ngoại xâm”
sang “xây dựng dân chủ” là một công việc nan giải và lâu dài đến đâu chúng ta
cũng phải xác định bắt buộc phải thực hiện. Vì trước sau chúng ta cũng phải
thực hiện công cuộc đó nếu chúng ta còn muốn đất nước hưng thịnh, còn muốn lịch
sử của dân tộc không phải quay cuồng với nạn ngoại xâm hay chìm đắm trong cảnh
nồi da xáo thịt chỉ vì bất đồng chính kiến.
Lạc quan đen
Nếu nhìn sự tồn vong
của đất nước Việt Nam hiện nay dưới góc độ quyền con người hay chủ quyền quốc
gia thì có thể nói không ai có thể lạc quan, nếu không muốn nói thẳng ra là
chúng ta đã mất nước. Có một đất nước nào còn chủ quyền mà chính người dân
của đất nước đó lại bị đối xử thấp hơn hẳn so với công dân của một nước khác?
Liệu quyền lãnh đạo quốc gia có còn thuộc về người dân của nước đó khi những
nơi xung yếu nhất về an ninh quốc gia đều có sự hiện diện âm thầm hay lộ liễu
của những kẻ đã tỏ rõ ý đồ muốn thôn tính quốc gia đó? Có một dân tộc nào còn
“Nước” không khi người dân phải lén lút bày tỏ lòng yêu nước?
Nhưng nếu nhìn tương
lai, tiềm năng của một dân tộc, một quốc gia trong sự chuyển hóa về ý thức dấn
thân cho việc chung của người dân, về tính độc lập trong tư duy của xã hội, ở
mức độ tuân phục cường quyền hay say mê lãnh tụ, trong khả năng nhận thức được
cái tiến bộ/lạc hậu của thời đại hoặc ở nồng độ đối địch với văn minh của giới
cầm quyền v.v. thì chúng ta vẫn có thể có cảm giác như thấy những tia sáng lóe
lên trong một đường hầm đen đặc của những câu hỏi khắc khoải ở trên.
Tuyệt vọng không phải
là điều con người mong muốn nhưng là một trong những cảm giác tự nhiên của con
người. Tuyệt vọng cũng không chỉ toàn sự tồi tệ. Sự phi thường vẫn thường vụt
ra từ tuyệt vọng. Dĩ nhiên đó phải là loại tuyệt vọng không đầu hàng.
© 2012 pro&contra
[1] Huỳnh Kim Khánh, Vietnamese
Communism 1925-1945, Cornell University Press, 1982, tr. 19
[2] Đảng
Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1998, tập 7, trang 148-153
[3] Văn
kiện Đảng Toàn tập,
Tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, trang 418.
[4] “Tình hình và chủ
trương ngày 3/3/1936”. Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, trang 44, 45.
[5] “Lời kêu gọi Toàn
quốc kháng chiến ngày 19/12/1946 của Hồ Chí Minh”. Văn
kiện Đảng Toàn tập,
Tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, trang 160.
[6] Hiến
pháp Việt Nam (Năm 1946, 1959, 1980 và 1992) Nxb Chính trị Quốc
gia, 1995, trang 7.
[7] Hiến
pháp Việt Nam (Năm 1946, 1959, 1980 và 1992). Nxb Chính trị Quốc
gia, 1995, trang 27, 28.
[8] Văn
kiện Đảng về chống Mỹ cứu nước, Tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, 2011,
trang 447.
[9] “Diễn văn khai mạc
Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần III do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc ngày 5 tháng 9
năm 1960”. Văn kiện Đảng về chống Mỹ cứu
nước,
Tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, 2011, trang 426.
[10] Ông Trương Như Tảng,
sáng lập viên Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Bộ trưởng Tư pháp
của Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam. Năm 1978 ông đã vượt biên
ra nước ngoài bằng đường biển trên một chiếc thuyền nhỏ.
[11] Truong Nhu Tang,
David Chanoff and Doan Van Toai, A Vietcong
Memoir, an inside account of the Vietnam War and its Aftermath, Vintage Books,
New York, 1985, trang 276, 277, 282, 288.
[12] Hiến
pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam 1980, Nxb Pháp lý, 1981,
trang 5, 10.
[13] Hiến
pháp Việt Nam (Năm 1946, 1959, 1980 và 1992). Nxb Chính trị Quốc
gia, 1995, trang 135.
[14] “Cương lĩnh Xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm
2011)“, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc
gia, 03/2011, trang 7
[15] “Cương lĩnh Xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm
2011)“, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc
gia, 03/2011, trang 25.
[16] Sách đã dẫn, trang
27.
[17] Lần duy nhất ĐCSVN
(Mặt trận Việt Minh) hợp tác, chia sẻ quyền lực với các nhóm chính trị đối lập
khác của người Việt là lúc ĐCSVN mới bắt đầu cầm quyền vào năm 1945. Nhưng đó
chỉ là một chiến thuật tạm thời của ĐCSVN hay như Hồ Chí Minh nói đó là ”sách
lược của Việt Vương Câu Tiễn” (Vũ Như Khôi, 80
năm Đảng Cộng sản Việt Nam, những chặng đường vẻ vang, Nxb Chính trị Quốc
gia, 2010, trang 158). Quãng thời gian hợp tác duy nhất đó cũng khá ngắn ngủi,
tạm tính từ 01/01/1946 – ngày công bố Chính phủ Liên hiệp Lâm thời (sau khi Hồ
Chí Minh đồng ý để chính phủ lâm thời có thêm thành phần thuộc các đảng phái phi
cộng sản như Nguyễn Hải Thần, Trương Đình Tri thuộc Việt Nam Cách mệnh Đồng
minh Hội, Nguyễn Tường Long thuộc Việt Nam Quốc dân Đảng), đến ngày 12/07/1946,
ngày xảy ra vụ án “Ôn Như Hầu” – Việt Minh thực hiện các cuộc đột kích, tấn
công vào trụ sở của Việt Nam Quốc dân Đảng và các lực lượng đối lập quan trọng
khác. Từ đó đến nay, chưa bao giờ ĐCSVN tỏ ra chấp nhận các tư tưởng, tổ chức
chính trị đối lập.
[18] Trong các cuộc tiếp
xúc giữa Mặt trận Việt Minh với người của Cục Công tác Chiến lược Mỹ (OSS) –
tiền thân của CIA, từ năm 1944 đến cuối năm 1945, đại diện của Việt Minh (Hồ
Chí Minh hoặc những nhân vật khác) đều bày tỏ được công nhận là tổ chức chính
trị duy nhất đại diện cho người Việt Nam (Archimedes L.A.Patti, Why
Vietnam?,
University of California Press, 1980).
[19] Lúc đó có những tổ
chức yêu nước khác như Việt Nam Quốc dân Đảng, Việt Nam Cách mệnh Đồng minh
Hội, Chính phủ Trần Trọng Kim, các nhóm chống Pháp của đạo Cao Đài, Hòa Hảo,
v.v.
[20] Tài
liệu sưu tầm – Cuộc kháng chiến thần thánh của Nhân dân Việt Nam, T1, Nxb Sự Thật, Hà
nội, 1960, trang 15, 16, 17.
[21] Jean Lacouture, Ho
Chi Minh,
Penguin Books, 1968, trang 130. Độc giả có thể tham khảo thêm thông tin trên
mạng ở đây.
[22] Văn
kiện Đảng Toàn tập,
Tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, trang 155.
[23] Hồ Chí Minh với bút
danh Đ.X viết trong Thường thức Chính trị, Nxb Sự Thật, 1953.
In lại trong Hồ Chí Minh với công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, Nxb Công an Nhân dân, 2002, trang 115.
[24] Trích Hồ
Chí Minh toàn tập,
tập 5, tr. 251, NXB CTQG, Hà Nội, 2002.
[25] Võ Nguyên Giáp kể
lại: “Bác thường nói: ‘Muôn việc lấy Đảng làm
gốc, Đảng là gia đình của người cộng sản.’”. Võ Nguyên Giáp, “Từ nhân dân mà ra”,
trong Tổng tập Hồi ký (Đại tướng Võ Nguyên Giáp), Nxb Quân đội
Nhân dân, 2011, in lần thứ 3 (theo bản in lần đầu năm 1964), trang 54.
[26] Văn
kiện Đảng Toàn tập,
Tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, trang 155.
[27] Samuel P.Huntington
(1927-2008), học giả chính trị người Mỹ có ảnh hưởng tầm thế giới, với những
tác phẩm như Political Order in Changing
Societies (1968), The Third Wave: Democratization in the Late Twentith Century
(1991), The Clash of Civilaztions and the Remaking of World Order (1996) (bản tiếng Việt Sự
va chạm của các nền văn minh, Nxb Lao động, 2005).
[28] Samuel P. Huntungton, Political
Order in Changing Societies, New Haven and London, Yale University
Press, 1968, trang 337, 339.
[29] Ở đây chỉ dẫn chứng
về mối quan hệ giữa ĐCSVN và Đảng Cộng sản Liên bang Xô-viết cũ, còn sự bất tín
và đầy âm mưu trong mối quan hệ giữa ĐCSVN và ĐCS Trung Quốc thì xin phép không
dẫn chứng ở đây vì đó là vấn đề đã quá rõ. Trong hồi ký của mình, Khrushchev đã
dành một phần để nói về quan hệ với ĐCSVN. Đây là một trích dịch từ hồi ký đó: “Nhưng
thông tin về một số sự kiện đến với tôi đã chỉ ra rằng mọi điều (trong quan hệ
giữa Liên bang Xô-viết và Việt Nam) không được trôi chảy như báo chí và TV đã
phản ánh. Theo thông tin của tôi thì phía Việt Nam đã có một sự cầm chừng nào
đó đối với nhà nước Liên bang Xô-viết và Đảng Xô-viết. Điều đó chắc chắn rằng
đã có một số phần tử thân Trung Quốc ở trong Đảng Lao động Việt Nam. Nhìn bề
ngoài thì dường như tình hữu nghị và sự thông hiểu lẫn nhau giữa Việt Nam và
Liên bang Xô-viết đang phát triển. Nhưng rất có thể đó chỉ là vẻ bề ngoài được
các lãnh đạo Việt Nam cố ý tạo ra – và rất có thể được sự đồng ý của phía
Trung Quốc – để họ không bị mất đi sự trợ giúp từ Liên bang Xô-viết và các Đảng
Cộng sản anh em khác. Tôi rất hy vọng sự thật không phải như vậy cho dù tôi vẫn
cho điều đó là vẫn có thể. Tôi muốn tin rằng Việt Nam thực sự mong muốn có quan
hệ tốt với Liên bang Xô-viết, nhưng tôi không nghĩ là Trung Quốc có thể nhả
Việt Nam khỏi móng vuốt của họ. Hơn nữa các phần tử thân Trung Quốc tại Việt
Nam vẫn tỏ ra mạnh mẽ. Chắc họ sẽ còn cố làm mọi thứ có thể để Việt Nam ngoạm
vào miếng ăn từ bàn tay Trung Quốc… Những tài liệu giúp tôi có cơ sở để dự báo
hoặc ít nhất là để phỏng đoán về diễn biến tương lai trong quan hệ với Việt Nam
là bản Di chúc của Hồ Chí Minh và bài phát biểu nổi tiếng của Lê Duẩn. Tôi đã
đọc cả hai tài liệu đó đến hai lần với sự chú tâm để cố gắng hiểu đúng những gì
họ viết. Trong bản Di chúc, Hồ Chí Minh đã không nói một tý gì về sự giúp đỡ to
lớn và quên mình của Liên bang Xô-viết đã dành cho Việt Nam. Sự trợ giúp của
chúng tôi là hết sức quan trọng vì thiếu chúng thì Việt Nam không thể nào sống
sót được trong một cuộc chiến hiện đại và không thể có khả năng chống lại được
một đối thủ giàu có và hùng mạnh như Mỹ được. Để có được những vũ khí cần
thiết, Việt Nam chả còn lựa chọn nào khác là phải dựa vào Liên bang Xô-viết. Và
để chiến thắng họ phải có những vũ khí thích hợp và những vũ khí đó chỉ có thể
có từ Liên bang Xô-viết… Đến nay cuộc chiến tàn bạo vẫn tiếp tục và chiến thắng
vẫn còn khó khăn. Nhưng ánh sáng chiến thắng của Việt Nam đối với đế quốc Mỹ đã
có thể nhìn thấy lấp ló từ phía xa. Vì vậy chúng ta không được lùi lại. Chúng
ta cần phải huy động tất cả cho chiến thắng cuối cùng đó của Việt Nam… Người
Việt Nam đã phải đổ nhiều xương máu cho phong trào cộng sản thế giới rồi. Liệu
những người kế thừa Hồ Chí Minh có đủ khôn ngoan cho chiến thắng đó không? Chỉ
có thời gian mới trả lời nổi.” Trước đó, chính Khrushchev đã thuật
lại việc Stalin không tin Hồ Chí Minh tới mức Stalin phải cho người bí mật lấy
lại một tờ tạp chí Xô-viết có thủ bút của Stalin (theo đề nghị của Hồ Chí
Minh), mặc dù theo Khrushchev, Hồ Chí Minh đã tỏ ra rất sùng kính Stalin trong
suốt cuộc trò chuyện. Khrushchev, Remembers, translated and
edited by Strobe Talbott, Little, Brown and Company, 1970, trang 481, 485, 486.
[30] Có thể cảm nghĩ và
đánh giá của Lý Quang Diệu (cựu Thủ tướng Singapore) về giới lãnh đạo Việt Nam
(ĐCSVN) thời kỳ 1975-1990 là một trong những điển hình của lãnh đạo thế giới
nhìn nhận về lãnh đạo của ĐCSVN. Sau đây là trích dịch một phần về đánh giá đó vào
giai đoạn khi ĐCSVN bắt đầu tiến hành những tiếp xúc đầu tiên với khối ASEAN
(trong đó có Singapore) sau khi quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc bị đổ vỡ. “Người
Việt Nam là những chuyên gia về trình diễn. Bước đầu tiên là Phan Hiền (thứ
trưởng ngoại giao) sang gặp chúng tôi để đưa một vẻ mặt đáng yêu của nước Việt
Nam cộng sản ra chào. Sau đó là Phạm Văn Đồng tới (ngày 16/10/1978) để chỉ cho
chúng tôi thấy ông ta là một người cứng rắn, gai góc như thế nào. Trong hai giờ
rưỡi đồng hồ trao đổi, chúng tôi chỉ đưa ra được những lời khách sáo và tránh
né. Cuộc nói chuyện chỉ thực sự bắt đầu thẳng thắn khi chúng tôi lên xe đi từ
sân bay về. Tôi bắt đầu bằng cử chỉ hoan nghênh ý muốn của Việt Nam muốn hợp
tác với chúng tôi vì hòa bình, ổn định và thịnh vượng, nhưng khi nghe Radio Hà
Nội và đọc báo Nhân dân thì chúng tôi buộc phải dè chừng. Họ không hề thân
thiện, thậm chí còn tỏ ra đe nẹt. Phạm Văn Đồng tuyên bố Việt Nam là quốc gia
xã hội chủ nghĩa và ông ta là một người cộng sản. Học thuyết của ông ta là chủ nghĩa
Marx-Lenin. Ông ta đến Singapore với tư cách là Thủ tướng của nước Cộng hòa Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam. Việt Nam đã phải đóng góp cho sự nghiệp cách mạng và
hòa bình ở khu vực Đông Nam Á và toàn thế giới rồi. Nhưng những điều đó lại chả
liên quan gì tới Singapore của chúng tôi cả… Tối đó, khi tôi đi cùng ông ta tới
chỗ ăn tối, ông ta nói là Việt Nam không thể trao đổi thương mại với Singapore
được nhưng cần Singapore giúp đỡ. Singapore đã được lợi từ cuộc chiến Việt Nam
rồi (qua việc bán phương tiện chiến tranh cho Mỹ) nên trách nhiệm của chúng tôi
là phải giúp đỡ họ. Tôi gần như ngã ngửa người ra vì thái độ ngạo mạn và hiếu
chiến đó… 12 năm sau, tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới ở Davos, Võ Văn Kiệt, Phó
Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng, đã đề nghị được gặp tôi. Ông ta hy vọng
có thể xếp các khác biệt lớn sang một bên để chúng tôi bắt đầu hợp tác. Tôi cảm
thấy rất tiếc là thời gian đã bị mất quá nhiều kể từ khi Việt Nam chiếm đóng
Campuchia từ tháng 12/1978. Chừng nào cuộc xung đột đó chưa được giải quyết thì
sẽ chả có một quan hệ cấp chính phủ nào cả. Võ Văn Kiệt nói rằng ở Việt Nam có
rất nhiều cơ hội đầu tư hấp dẫn và ông ta đã cấp hơn 100 giấy phép đầu tư cho
các công ty nước ngoài rồi. Tôi đáp lại rằng dù có là 100 hay 1000 giấy phép
như thế thì kinh tế Việt Nam cũng chả thể ngóc đầu được nếu như Hoa Kỳ không ra
dấu để Ngân hàng Thế giới (World Bank) được cấp vốn vay tái thiết cho Việt Nam
và nếu các công ty Hoa Kỳ không xác định Việt Nam là một thị trường có thể đầu
tư… Trong báo cáo với chính phủ, tôi đã mô tả Việt Nam là một đất nước kinh
khủng mặc dù lúc đó họ đã mở cửa được 6 năm rồi. Năm 1975, thành phố Hồ Chí
Minh có thể so sánh được với Bangkok, thế mà lúc này (năm 1992) nó đã bị tụt
lại so với Bangkok phải tới hơn 20 năm.” Lee Kuan Yew, From
Third World to First,
Harper Collins Publishers, 2000, trang 310, 312, 314.
[31] Bắc Triều Tiên, nằm
sát ngay cạnh Trung Quốc, nhưng vì có những yếu tố hết sức đặc biệt nên tôi
không đưa vào trong sự liệt kê này.
[32] Philippines theo xếp hạng của EIU năm 2011 thuộc nhóm Dân chủ
khiếm khuyết (flawed democracy) đứng thứ 74/167. Việt Nam thuộc nhóm các chế độ
độc tài (authoritarian regimes) hạng 140/167.
[33] Thế Nguyên, Phan
Chu Trinh, Nxb
Tân Việt, Sài Gòn, 1956, trang 156.
[34]Sách
đã dẫn, trang 127.
[35] Trao đổi của Lương
Khải Siêu (1873-1929, nhà cách mạng và tư tưởng dân chủ của Trung Quốc) với
Phan Bội Châu. Lê Thị Kinh, Phan Châu Trinh qua những tài
liệu mới, Nxb
Đà Nẵng 2001, trang 109.
[36] Phan Chu Trinh đánh
giá Phan Bội Châu: “Phan Bội Châu là con người khẳng khái,
dám làm, không kể thân mình, sức tự tin rất sâu, tôi cũng vậy,… chí khí giống
nhau, cảnh ngộ giống nhau, chỉ ý kiến là khác nhau…” Lê Thị Kinh, Phan
Châu Trinh qua những tài liệu mới, Nxb Đà Nẵng 2001, trang 105. Còn Phan Bội Châu
viết về Phan Chu Trinh: “Cụ thì muốn đánh đổ quân chủ, mà cốt
vun trồng lấy nền tảng dân quyền, dựa vào Pháp mà đánh đổ quân chủ. Còn ý tôi
thì trước muốn đánh đổ người Pháp, chờ nước mình độc lập rồi, mới bàn đến việc
gì khác. Vì thế mà đương lúc đánh với Pháp, phải lợi dụng quân chủ. Chính kiến
của hai người rất phản đối nhau. Bởi vì cụ với tôi vẫn cùng một mục đích, mà
thủ đoạn thì xa nhau…”
Sách vừa dẫn, trang 93.
[37] Theo Thụy Khuê, Phan
Chu Trinh đã bày tỏ quan điểm về đường lối giành độc lập cho đất nước của
Nguyễn Tất Thành như thế này:“Tôi biết anh hấp thụ
được cái chủ nghiã của ông Mã Khắc Tư [Karl Marx] ông
Lý Ninh [Lénine] nên
tôi cũng đem chuyện hai ông ấy mà giảng dẫn cho anh rõ. Cứ xem hai
ông Mã, Lý mà anh tôn thờ chủ nghĩa, có ông nào dùng cái lối nương náu đất
người mà làm quốc sự cho mình, như anh đâu? Bởi vậy, quả như anh tôn thờ lý
thuyết hai ông ấy thì anh nghe tôi mà về quảng cáo cho quốc dân đồng bào.” “…
Tôi (Phan Chu Trinh) đã gặp Nguyễn Ái Quốc từ 10 năm trước đây mà tôi thấy anh
chủ trương cách mệnh triệt để quá táo bạo nên tôi không thể theo anh được, và
anh cũng không chấp nhận đường lối của tôi. (…)”. Xem thêm tại đây
0 comments:
Đăng nhận xét