Phạm Hồng Sơn
Ngày hôm qua, 21/11/2011, trong kỳ họp thứ 4, khóa 13, với tỷ
lệ 474/478, Quốc hội Việt Nam đã gần như tuyệt đối thông qua một nghị quyết lịch
sử. Nghị quyết này gồm nhiều điểm chi tiết nhằm cụ thể hóa qui trình cũng như
phạm vi, đối tượng mà Quốc hội có thể bãi nhiệm chức vụ.
Nói một cách ngắn gọn và bình dân là: từ 01/02/2013 Quốc hội
có thể đuổi việc tất cả công chức chính quyền từ ông thủ tướng, chủ tịch nước,
viện trưởng viện kiểm sát nhân dân cho tới ông chủ tịch phường, cô thư ký xã.
Dĩ nhiên, nghị quyết này không thể áp dụng đối với chức vụ tổng bí thư Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Thực ra, nghị quyết này chỉ là một cụ thể hóa thêm cho thẩm
quyền bãi chức, đuổi việc của Quốc hội đối với các viên chức công quyền thiếu
tư cách và/hoặc kém năng lực đã được Hiến pháp (Điều 83 Hiến pháp 1992, sửa đổi
bổ sung 2001) và chính Luật tổ chức Quốc hội (năm 2002, sửa đổi 2007) đã giao
cho từ lâu.
Như vậy, một trọng trách đã được minh định trên văn bản
nhưng chưa bao giờ được thực thi đã vừa được Quốc hội củng cố thêm cũng bằng
văn bản. Việc thực thi lần này ra sao (nếu có) chắc chắn vẫn còn phải đợi thời
gian trả lời.
Nhưng vấn đề quan trọng là nếu chính bản thân Quốc hội thiếu
tư cách và/hoặc mất năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ là “cơ quan đại biểu
cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực cao nhất của nước” (Điều 83 Hiến
pháp), thì Quốc hội có tự bãi nhiệm, từ chức không?
Nếu không, làm sao Quốc hội có đủ tư cách, uy lực để phán
xét, buộc người khác từ chức?
DienDanCTM
nguồn:https://www.facebook.com/nhucaytrevn
0 comments:
Đăng nhận xét