Giới văn nghệ bảo
Nguyễn Trọng Tạo là một nghệ sỹ đa tài, cái gì anh cũng mần được, mà mần rất giỏi:
thi sỹ, nhạc sỹ, họa sỹ, nhà báo. Anh đã đoạt rất nhiều giải thơ, giải nhạc,
giải báo, giải vẽ bìa sách. Và một giải thưởng lớn nhất là anh đã đi vào lòng
bạn đọc.
Tôi là một trong
hàng triệu người yêu thơ và nhạc của anh từ lúc nhỏ, bởi thơ, nhạc của anh luôn
trăn trở về thân phận tình yêu và đất nước. Anh viết về chiến tranh trong hòa
bình, đọc lên cứ nghe man mác một nỗi buồn nhân văn:
“Những khẩu pháo một thời đã bắn
Những chiếc
máy bay giữa trời bốc lửa
Xác bây giờ
nằm đâu
Quanh khẩu
pháo vô tư cỏ mọc
Lá non mềm như
chưa có chiến tranh”…
Nhưng khi anh
viết về tình yêu lại đưa người đọc đi vào ngất ngây, say đắm
“Em mười chín
nghìn năm về trước
Sao đến bây
giờ mới hai mươi…
Cứ tưởng một
lần cho đỡ khát
Nào ngờ bùa
ngải lú trời xanh”…
Sinh ra nơi đồng
chua nước mặn của vùng quê ven biển Diễn Châu (Nghệ An). Lớn lên anh vào lính
rồi nghiệp văn chương thơ phú đưa thi sỹ đi khắp mọi miền quê của Tổ quốc. Anh
nhớ da diết cha mẹ, nhớ về quê hương, bạn bè thời chăn trâu, cắt cỏ. Không thế
mà anh có bài thơ “Mẹ” khó có bài thơ đương đại nào sánh kịp. Ngay phần nhạc
trong bài hát “Khúc hát sông quê” mỗi lần hát lên ai mà không nao lòng, da diết
nhớ về nơi chôn rau cắt rốn. Anh là một thi sỹ “không mơ theo trăng và vơ vẩn
cùng mây/ khóc ri rỉ như ve sầu tháng hạ” mà anh đầy trách nhiệm với quê hương,
Tổ quốc. Không bất ngờ tý nào khi gần đây thi nhân viết báo bài “Thế lực dơi”
và tiếp đó là bài thơ “Nhân Dân” trong bối cảnh đảng CSVN đang bàn chuyện phê
và tự phê trách nhiệm của từng thành viên BCT và các đảng viên. Vấn đề tế nhị
này không nói ra thì triệu triệu người dân Việt đều biết về kết quả của nó.
Tạm gác tình yêu
đôi lứa, tình yêu quê hương, thi sỹ Nguyễn Trọng Tạo đi thẳng vào “dầu sôi lửa
bỏng” của đất nước. Mở đầu bài thơ “Nhân Dân” anh đưa ra một triết lý “Có
thể thay quan, không thay được Nhân Dân/ Thay tên nước, không thể thay Tổ
quốc”. Thế mà sự đời thật trớ trêu và đầy nghịch lý: “Nhưng sự thật khó
tin mà có thật/ Không thể thay quan, dù quan đã thành sâu”. Quan ở đây rõ
ràng không phải quan thời phong kiến “Con ơi nhớ lấy câu này/ Cướp đêm là giặc,
cướp ngày là quan”. Vì “Quan thành giòi đục khoét cả đất đai/ Vòi bạch tuộc
đang ăn dần biển đảo”. Uất ức quá! Uất đến “Đêm nằm mơ thấy biển Đông
hộc máu/ Những oan hồn xô dạt tận Thủ Đô”.
Sự khái quát của
2 khổ thơ đầu mà cái cớ “nằm mơ” đưa ta đi đến những hiện thực đang phơi bày
đầy nhức nhối:
“Những oan hồn
chỉ còn bộ xương khô
Đi lũ lượt, đi
tràn ra đại lộ
Những oan hồn
vỡ đầu, gãy cổ
Ôm lá cờ rách
nát vẫn còn đi”.
“Lá cờ” là biểu
tượng của Tổ quốc, nhưng nó đã “rách nát” bởi những “con sâu” đã cắn xé, gặm
nhắm? Viết đến đây tự nhiên trong lòng tôi bỗng trào dâng lên bài hát “Đất nước
tôi, thon thả giọt đàn bầu. Nghe dịu nỗi đau của Mẹ. Ba lần tiễn con đi, hai
lần khóc thầm lặng lẽ, các anh không về lòng Mẹ lặng im”… Đất nước nhiễu sự,
hàng triệu trai trẻ hy sinh để Tổ quốc yên bình, vậy mà “sâu keo” lại nảy nòi
đục khoét.
Tôi có mấy câu
thơ báo Tiền Phong, báo Nghệ An đã đăng tải, có thể nó chưa hay nhưng xin đưa
ra đây để nhắc lại một nỗi niềm:
“Sâu keo nhiều,
cánh đồng mất trắng
Đói lòng, lão nông
đẵn tre làm thang ra phố bán
Có kẻ ngồi ăn
nhồm nhoàm trong quán
Chỉ cho lão bán
thang đến viện bảo tàng
Có kẻ áo mũ sênh
sang
Ví lão và thang
như bản nhạc quá cố
Reo lên cười hô
hố
Có tay mở cửa ô
tô nói nhỏ
Ông Bờm đưa tre
ra phố làm gì
Reo lên cười hì
hì
Lão nông bán
thang chợt đứng chợt đi
Dấu chấm than
kép, chấm từ đất lên trời
Còng lưng bán
thang
Lão rao ời ời
Lời như có muối,
xát vào lòng tôi”.
Nhưng “lão nông
bán thang” trong thơ Nguyễn Trọng Tạo là cả một đội quân hùng mạnh, họ biết
đoàn kết lại, hùng hậu
“Đi qua hàng
rào, đi qua những đoàn xe
Đi qua nắng qua mưa, đi qua đêm, đi qua bão
Đi đòi lại niềm tin, đi đòi lại cuộc đời
Đi đòi lại
những ông quan thanh liêm đã chết tự lâu rồi”.
Có một ẩn dụ nghe
tưởng chừng vô lý “Những ông quan thanh liêm đã chết tự lâu rồi” thì làm
sao mà đòi được? Thế mà có lý, vì khát vọng được tin yêu, khát vọng được thánh
thiện luôn là mơ ước. Và nữa, trong cái “chết lâu rồi” vẫn có kẻ “còn sống”,
nhân văn của thi sỹ là thức tỉnh cái đã chết của những con sâu. Bài thơ tiếp
tục khát khao như lòng Dân, ý của Nguyễn Trọng Tạo
“Đòi lại ánh
mặt trời cho tái sinh vạn vật
Tôi tiỉnh lại
thấy mặt tràn nước mắt
Nước mắt Nhân
Dân mặn chát rót vào tôi”.
Thì ra Nguyễn
Trọng Tạo “nằm mơ”, giấc mơ hãi hùng, khủng khiếp. Cứ theo ý thơ, tôi tưởng
tượng ra thi sỹ vùng dậy toát mồ hôi rồi chép ngay bài thơ “Nhân Dân” một mạch.
Nhưng tôi lại tự hỏi “tỉnh mơ” rồi mà thi sỹ vẫn có tiếp 4 câu cuối
“Ôi! Những ông
quan không Dân trên chót vót đỉnh trời
Có nhận ra tôi
đang kêu gào dưới đáy
Cả một tỷ tôi
sao ông không nhìn thấy
Vì tôi vẫn là
người, mà ông đã là sâu?”.
Tôi không trả lời
được những điều nhà thơ thể hiện đang bỏ ngõ câu hỏi? Nhưng dẫu là giấc mơ thì
bài thơ cũng đầy ắp tính thời sự, không tránh né, đầy trách nhiệm. Đó là lòng
Dân và ý của Nguyễn Trọng Tạo, mong “bão nổi can qua” cho những ông quan thanh
liêm trở lại cùng Dân Nước…
Nhớ đến thời gian
đang ngồi trên ghế nhà trường tôi đã mê thơ Nguyễn Trọng Tạo. Thơ anh không cầu
kỳ, mà tự nhiên đi vào lòng người lúc nào không biết, giống như bùa mê “Cứ
tưởng một lần cho đỡ khát/ Nào ngờ bùa ngải lú trời xanh”. Sức mạnh của thơ
là thế, nó có khi còn mạnh hơn cả một binh đoàn, không súng ống, xe tăng, máy
bay, gây máu đổ mà lay động, thức tỉnh mọi lương tri phải làm gì để phần chiến
tranh trong hòa bình không tồn tại. Đó là nạn tham nhũng, tham quyền cố vị làm
khổ dân lành. Yêu mến, quý trọng thơ nói riêng của Nguyễn Trọng Tạo tôi luôn
luôn nung nấu muốn gặp anh.
Hai chục năm
trước, tôi đến Huế, theo nhà thơ Ngô Minh tìm đến nhà riêng, nhưng anh đi vắng.
Một lần về huyện Diễn Châu công tác, tôi dò hỏi và được bí thư huyện đưa
tôi đến thăm anh ở xã Diễn Hoa. Nhà anh cấp 4, mái ngói rêu phong của thời
gian. Anh ân cần mời mọi người bia, rượu. Tôi cầm cốc bia mãi trên tay quên
uống, cứ nhìn anh như nhìn một người tình quá lâu mới gặp lại. Ngày 21/6 vừa
qua ra Hà Nội kỷ niệm ngày báo chí (báo Tamnhin.Net) tôi lại được gặp anh. Anh
vẫn khỏe trẻ, phong độ. Lần đó đang ăn uống mừng ngày báo chí, thấy tôi cứ xóng
nóng ngó xuống tầng dưới, anh cũng ngó xuống theo, thấy một cô gái. Tôi nói với
anh đó là con gái tôi. Anh chạy xuống nắm tay đưa cháu lên cùng ăn. Thế đó,
trong cái vĩ đại của con Người Thơ Nguyễn Trọng Tạo có một trái tim thật tình
cảm, dễ gần gũi. Tôi hú vía nhớ lại năm 1981 anh định dùng súng tự tử vì một
chuyện văn chương, nhưng thật may Thơ đã cứu anh thoát khỏi tử thần. Nếu không
thì tôi và con gái tôi, hai cha con yêu thơ anh làm sao găp được thi sỹ để khoe
với bạn bè hôm nay. Và hôm nay tôi làm sao đọc được bài thơ “Nhân Dân” đầy chấn
động của anh.
Anh là một nhà
thơ giàu trăn trở, trách nhiệm đối với vận mệnh đất nước. Vì thế mà anh luôn
nói thẳng trước mọi quan niệm của mình. Bài “Đừng thêm những tháng tư”…Có đoạn:
“Năm nay lại 30 tháng tư, chả viết được dòng nào… Cứ tưởng đất nước thống nhất
rồi chỉ toàn vui “non sông thu về một mối” như diễn văn chiến thắng đã đọc,
nhưng lòng người đã thu về một mối hay chưa? 35 năm vẫn còn trăm mối tơ vò”.
Trong bài, anh trích thơ của Nguyễn Duy: “Nghĩ cho cùng mỗi cuộc chiến tranh/
Phe nào thắng thì nhân dân đều bại”. Anh là sỹ quan quân đội, đi suốt cuộc
chiến tranh chống Mỹ, từ chiến tranh anh nhìn đến hòa bình mà thơ, văn, báo chí
anh viết luôn luôn đau đáu, trăn trở. Anh vẫn dũng cảm như một người lính, một
người lính trọn đời thuộc về Nhân Dân.
Ghi chú : bài gửi kèm ảnh Nguyễn Trọng Tạo
mặc áo trắng ngoài cùng (trái) cùng các văn nghệ sỹ.
0 comments:
Đăng nhận xét