Gia Minh, PGĐ Ban Việt
ngữ RFA
Ông Tạ Quang Bửu, trưởng đoàn VNDCCH tại buổi ký Hiệp định Genève 1954. Photo courtesy of wikipedia |
Hiệp định Geneva năm
1954 được ký kết nhằm giúp chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam và cả Đông Dương.
Thế nhưng mục tiêu đó đã không đạt được; trái lại chiến tranh lại diễn ra suốt
trong mấy mươi năm sau đó, ngăn chặn sự phát triển của Việt Nam về mọi mặt.
TQ nhượng bộ Pháp và miền Nam?
Gia Minh hỏi chuyện sử
gia Phạm Cao Dương hiện ngụ tại California, Hoa Kỳ về những điểm đáng chú ý của
Hiệp định Geneva 1954 và bài học cần rút ra. Trước hết ông cho biết:
Phạm Cao Dương: Trước hết Hội nghị Geneva năm 1954 không phải
được nhóm họp sau ngày sự kiện Điện Biên Phủ chấm dứt, mà nó đã được triệu tập
từ trước rồi (từ ngày 26 tháng 4). Mục tiêu của hội nghị ban đầu không phải bàn
về Việt Nam mà bàn về chiến tranh Cao Ly (Triều Tiên). Việc bàn về Việt Nam vào
ngày 8 tháng 5 mới bắt đầu và không phải là chính. Nhưng vì tình hình tại Việt
Nam thay đổi: biến cố, trận chiến Điện Biên Phủ chấm dứt nên người ta họp vào
ngày đó.
Thứ hai, sách trong
nước thường ca ngợi đó là chiến thắng của phía Việt Minh. Điều đó không hoàn
toàn đúng, vì nếu chúng ta theo dõi những gì xảy ra trước đó khi ông Hồ Chí Minh
và Võ Nguyên Giáp sang họp với Chu Ân Lai ở Liễu Châu, người ta thấy phía Việt
Minh tức tối lắm. Sau này ông Võ Nguyên Giáp có nói rằng khi ông thuyết trình
thì bản đồ đưa ra ‘đỏ’ hết tất cả; nhưng đến khi Chu Ân Lai thuyết trình thì
theo lời ông Võ Nguyên Giáp ‘Bác và tôi rất ngỡ ngàng’ vì sự nhượng bộ mà Chu
Ân Lai dành cho phía Pháp và miền Nam.
Lý do hai ông Hồ Chí
Minh và Võ Nguyên Giáp không vừa ý vì hai ông tin tưởng được nhiều lợi thế hơn
những gì mà phía Chu Ân Lai và Molotov (ngoại trưởng Nga lúc đó) buộc phía Việt
Minh phải chấp nhận. Trước hết là sự hiện diện của bộ đội Việt Minh ở Miên và
Lào. Chủ trương của Việt Minh hồi đó là muốn nâng đỡ hai tổ chức cộng sản bên
Miên và Lào (Pathet Lào và Khmer Issarak). Phía đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng
Hòa luôn phủ nhận không có sự hiện diện của bộ đội bên hai nước đó, nhưng cuối
cùng Chu Ân Lai và Molotov ép buộc Việt Minh phải phần nào chấp nhận điều đó,
và sau đó chấp nhận luôn. Có nghĩa chấp nhận đã rút rồi nhưng vẫn còn một phần
ở lại bên Miên và Lào. Do vậy Pháp và phía Miên, Lào không chấp nhận nên cuối
cùng chấp nhận ‘nếu còn sẽ rút đi’.
Điểm nữa về phân chia
lãnh thổ. Khi có sự chia đôi, bên phía người Pháp đề nghị vĩ tuyến 19 và phía
Việt Minh muốn vĩ tuyến 13 hay ít ra là vĩ tuyến 16; nhưng cuối cùng cũng hai
ông Chu Ân Lai, Molotov và phía người Pháp - Mendes France, thỏa thuận vĩ tuyến
17.
Đến chuyện ngày bầu cử
thống nhất, đầu tiên Phạm Văn Đồng muốn 6 tháng, nhưng sau đó lên 1 năm và 2
năm. Quyết định cuối cùng là năm 1956, tức 2 năm sau.
Cần phải để ý là Trung
Quốc trong thời điểm đó mới làm chủ được lục địa Trung Hoa và chưa có vai trò
quốc tế nào nên họ muốn vai trò nào đó, và Hội nghị Geneva là cơ hội để họ đóng
vai trò đó.
Gia Minh: Việc tuyển cử như ông nói được thống nhất vào
năm 1956, sau đó Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa có đề nghị với phía miền Nam, nhưng
miền Nam từ chối. Lý do vì sao thưa ông?
Phạm Cao Dương: Thực ra phía miền Nam mà buổi đầu là Quốc gia
Việt Nam của Bảo Đại và sau này là Việt Nam Cộng Hòa của ông Ngô Đình Diệm,
không chấp nhận bản Tuyên bố Cuối cùng. Chúng ta nên nhớ sự thỏa thuận ở Geneva
gồm hai phần: phần thứ nhất là đình chiến và phần thứ hai là chính trị. Phần
đình chiến được ký kết hẳn hoi, có nhiều bản thỏa ước; còn phần chính trị không
có bản thỏa ước được ký kết mà chỉ là Bản Tuyên bố Cuối cùng được các bên chấp
nhận bằng miệng mà thôi.
Phía Quốc gia Việt Nam
lúc đó và sau này là Việt Nam Cộng Hòa thì không chấp nhận Bản Tuyên bố Cuối
cùng đó. Phía Mỹ cũng không chấp nhận. Nên nếu không chấp nhận thi hành cuộc
bầu cử đó chẳng qua vì họ không bị ràng buộc về phương diện pháp lý.
Thứ hai nữa, nếu có
bầu cử phải cần những điều kiện tối thiểu để có sự công bằng. Đằng này chưa
chắc có sự công bằng đó, thành ra miền Nam không chấp nhận cũng có lý của họ.
Bài học kinh nghiệm
Gia Minh: Sau 60 năm rồi, ông thấy có những bài học gì?
Phạm Cao Dương: Trong những hoạt động bang giao quốc tế, các
quốc gia luôn đặt quyền lợi của mình lên trên, kể cả đồng minh cũng đứng hàng
thứ không quan trọng. Nếu bên Trung Quốc vì quyền lợi riêng mà hy sinh đồng
minh là Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa thì đó cũng là điều tự nhiên mà thôi. Nhưng
Hà Nội không thấy điều đó!
Thứ hai nếu nhìn vào
thế giới trong thời gian đó và những năm tiếp theo, không phải chỉ có Việt Nam
bị chia đôi. Còn nhiều nước khác bị chia đôi nữa nhưng không có nước nào dùng võ
lực để tiến chiếm nước kia. Còn Việt Nam thì chuyện đó đã xảy ra.
Nhưng hậu quả là Hà
Nội không có đủ thực lực để tự mình đánh xuống miền Nam nên phải dựa vào thế
của Trung Quốc; Hà Nội và cả miền Nam đều không nhận ra điều, không biết đánh
lá bài của Trung Quốc. Vì hồi đó Trung Quốc không muốn người Mỹ vào miền Nam và
hiện diện tại miền Nam, họ muốn dùng người Pháp để giữ không cho Mỹ can thiệp
vào Việt Nam.
Gia Minh: Cám ơn sử gia Phạm Cao Dương.
0 comments:
Đăng nhận xét