Georg Hegel và Friedrich
Engels, hai triết gia Đức vĩ đại, thường nhắc đến cụm từ “sự mỉa mai (hay sự
trớ trêu) của lịch sử” (irony of history), với ngụ ý rằng mục đích của những
cuộc cách mạng xã hội đặt ra ban đầu thường không thực hiện được. Thay vào đó,
cuộc cách mạng có thể có “hiệu ứng ngược”, dẫn tới những hậu quả trái ngược với
dự tính.
Sự mỉa mai của lịch sử
cũng có thể gọi là bi hài kịch của “cách mạng”. Bi hài kịch của cách mạng ở
nước nào sẽ là bi hài kịch của nước đó.
Mấy chục năm qua là giai
đoạn bi hài kịch của nước Việt. Những mục tiêu cơ bản được dự tính ban đầu về
tương lai dân tộc, được nêu thành những khẩu hiệu kêu xoang xoảng, thành những
thứ “lý luận”, “nghị quyết”, “văn kiện”,… đều bị đảo lộn theo cách vừa thê
thảm, vừa nực
cười, và theo cách nào đó là khá “ngoạn mục”. Kèm theo đó, những tính chất mà ban đầu được coi là “thuộc tính” của cái “hệ thống” vừa được thiếp lập, theo thời gian ngày càng tỏ ra bị ngộ nhận.
cười, và theo cách nào đó là khá “ngoạn mục”. Kèm theo đó, những tính chất mà ban đầu được coi là “thuộc tính” của cái “hệ thống” vừa được thiếp lập, theo thời gian ngày càng tỏ ra bị ngộ nhận.
*
Một trong những mục tiêu
không thành hiện thực được thể hiện bởi khẩu hiệu “Người cày có ruộng”. Ở miền
Bắc, chỉ 2 năm sau khi hoàn thành “cải cách ruộng đất”, mà ban đầu được phổ
biến là lấy đất của địa chủ, phú nông chia cho bần-cố nông, những người nông
dân đã bị “lùa” vào hợp tác xã (nông nghiệp). Đây là hình thức hợp tác xã bắt
buộc. 100% đất canh tác ở miền Bắc, nếu không thuộc sự quản lý của các nông
trường quốc doanh, đều là đất của hợp tác xã. Gia đình nào “ngoan cố” không
chịu vào hợp tác xã đều bị chính quyền o ép đến sống dở chết dở, con cái không
được đi học, ra ngoài không có bạn chơi. Trong nhiều trường hợp, hợp tác xã tự
ý cho người đến canh tác trên đất của gia đình “ngoan cố”, nếu nhà kia chống
lại thì bị đám đông đánh đập, cuối cùng cũng phải vào hợp tác xã. (Một điều khá
khôi hài là mặc dù dùng hình thức cưỡng bức để bắt mọi gia đình vào hợp tác xã,
nhưng cấp trên vẫn sản xuất một thứ “thơ” để tuyên truyền rằng vào hợp tác xã
sẽ sung sướng tuyệt đỉnh, làm ra vẻ hợp tác xã hình thành là do bà con đọc thứ
“thơ” đó và “thấm nhuần”, nên tự nguyện vào hết!)
Vì hợp tác xã chỉ dẫn
đến đói nghèo, vào cuối những năm 1980, người ta buộc phải để cho “thành phần
kinh tế cá thể (hay tư nhân gì đó)” hình thành, và ngay lập tức, tất cả các hợp
tác xã nông nghiệp đều tan rã!
Tuy nhiên, điều vừa nói
không có nghĩa là ước mơ “người cày có ruộng” đã thành hiện thực. Vì quá ít
đất, vì không có cách nào để thoát khỏi tình trạng canh tác lạc hậu, lại chịu
đủ các thứ thuế khóa, thu nhập từ mảnh ruộng của người nông dân với con cái và
cha mẹ già của họ không đủ cho họ có được cuộc sống bình thường. Nhiều gia định
buộc phải bán “quyền canh tác” trên mảnh ruộng để đi vào thành phố, đến các khu
công nghiệp tìm việc.
Mặt khác, không chỉ nông
dân, mà ở đất nước này, với luật đất đai quy định đất là “sở hữu toàn dân” bất
cứ ai cũng không thể trở thành chủ nhân thực sự của một tấc đất nào. Vì vậy,
giấc mơ “người cày có ruộng” hoàn toàn và tuyệt đối là ảo mộng, không có nền
tảng pháp lý nào để thành hiện thực. Hơn thế, bất cứ ai, vào bất kỳ giây phút
nào, cũng có thể bị tống cổ khỏi ngôi nhà và mảnh đất mình đang ở ra đường, nếu
không phải là các nhà hoạch định các dự án xây dựng hoặc có quan hệ mật thiết
với những người này theo kiểu nào đó.
*
Một sự đảo lộn khác xảy
ra trong tương quan giữa hai “phe”. Vào những năm 1950-1960, người ta bảo dân
rằng nước ta là nước nằm trong “phe dân chủ”, cùng với hai nước đàn anh như
Liên Xô, Trung Quốc và các nước bạn khác. Đối kháng với “phe dân chủ” là “phe
đế quốc” hay “phe phản động”, gồm những bọn thối tha như Mỹ, Anh, Pháp,… Đến
khoảng 1985-1986, “phe dân chủ” tiến hành “dân chủ hóa”, hóa ra lại làm những
cái hơi giống như “phe đế quốc”. “Dân chủ hóa” làm ta từ chỗ rất xa với “đế
quốc” tự nhiên xích lại gần nó mới hay chứ! (Giống như đang ở miền đất gần xích
đạo, bảo nhau ở đây mát lắm, còn trên phía bắc kia nóng lắm, đến khi quyết định
di cư cho mát hơn thì lại thấy chỗ ở mới nằm gần đường chí tuyến; bấy giờ mới
biết phía bắc thực ra mát hơn nhiều, thậm chí mát lạnh.)
Điều người ta nói về ưu
thế của CNXH hóa ra cũng là nói xạo. Ưu thế chi mà cái “phe dân chủ” đó mới
hình thành hơn 4 thập niên đã sụp đổ tan tành. (Tất nhiên cũng có vị “to như
rứa” bảo đó chỉ là tạm thời thôi. Cuối cùng thì CNCS cũng toàn thắng trên trái
đất này, he he!)
*
Thêm một ví dụ về sự đảo
lộn trong tiến trình “cách mạng” – cái này thì khía cạnh hài trội hơn. Đó là
“tình hữu nghị Việt-Trung-Xô”. Dân ta, theo sự định hướng từ bên trên, đã từng
coi Liên Xô, Trung Quốc không chỉ là bạn, là anh em ruột, mà còn coi là bậc
thầy luôn luôn và tuyệt đối sáng suốt. Đã có rất nhiều bài viết về sự ngây thơ,
ấu trĩ của người Việt ta vào thời kỳ cách hơn đây nửa thế kỷ. Chỉ xin dẫn một
vài câu mà một vị bề trên dặn dò hạ cấp: “Các chú các cô không (nên) sợ người
ta kêu mình kém tri thức, ít lý luận. Họ kêu thì bảo họ rằng tôi lú nhưng chú
tôi khôn. Chú tôi là Stalin, Mao Trạch Đông…” hay: “… trung ương (ta) có thể
sai, nhưng Mao Chủ Tịch không bao giờ sai.”
Riêng về quan hệ
Việt-Trung thì có thể nói đến giờ đã thấy một sự đảo lộn 100%. Chỉ còn lại một
nhóm người vì lý do “gì đó” còn muốn níu kéo nó. Cùng lúc, quan hệ Việt-Mỹ, bất
chấp cản trở “ý thức hệ”, đang ngày một cắm rễ sâu. Về chuyện này, đã có người
nói vui rằng chữ “Hoa” trong câu “Mối tình hữu nghị Việt-Hoa – Vừa là đồng chí
vừa là anh em” được người nói ra ngầm gán cho một nghĩa đầy “thâm ý”, là nói về
Hoa Kỳ (chứ không phải Trung Hoa)!!!
Cùng với sự đảo lộn này,
Việt Nam
ta đang từ vai trò “tiền đồn của phe XHCN” biến dần thành “tiền đồn chống chủ
nghĩa bành trướng Đại Hán”. Với những chuyến đi kiểu ngoại giao con thoi, Mỹ,
Nhật, Úc, Phi Luật Tân đang cố gắng đưa VN vào quỹ đạo để VN thực hiện sứ mạng
này. Hy vọng rằng trong lần làm “tiền đồn” này, VN sẽ không bị Mỹ, Nhật đối xử
theo kiểu hai ông anh trước đây, bởi tình thế bây giờ đã khác trước, và Mỹ,
Nhật không phải là “đồng chí”, đồng thời VN không phải tiền đồn duy nhất.
*
Trở lại với “sự mỉa mai
của lịch sử”. Vì sao chuyện như vậy thường xảy ra? Không có cách giải thích nào
khác, ngoài lý do là vì những người khởi xướng cách mạng thiếu một tầm nhìn vừa
xuyên lịch sử, vừa thấu hiểu những quy luật vận động của tâm lý quần chúng và
tâm lý cá thể, trong đó có tâm lý của những kẻ cầm quyền. Họ đã ngây thơ cho
rằng chỉ cần tổ chức giành được chính quyền, rồi nêu ra những điều giáo huấn,
răn dạy đạo đức cho cấp dưới và cho quần chúng, nêu ra những mục tiêu rõ đẹp đẽ
bằng các khẩu hiệu, nghị quyết, thì một xã hội tuyệt hảo sẽ hình thành trong
một thời gian ngắn và ngày càng phát triển, ngày càng tươi đẹp. Họ đã không nêu
ra được một cơ chế để bảo đảm sự phân lập, tránh tập trung quyền lực vào một cá
nhân hoặc một nhóm người không có đối lập.
Chính vì muốn tránh đưa
ra những mục tiêu và phương pháp cách mạng thiếu thực tế mà F. Engels đã để cho
các đại biểu đại hội Quốc Tế Đệ Nhất, do Karl Marx và ông sáng lập, giải tán nó
và lập ra Quốc Tế Đệ Nhị với những mục tiêu khác đi mà những người cộng sản sau
này không muốn nhắc đến. Tuy nhiên, QT Đệ Nhị cũng đã thất bại.
Trong khi đó, ở một số
quốc gia mà tiêu biểu là Pháp và Hoa Kỳ, người ta đã nêu ra và hiện thực hóa hệ
thống “tam phân” (tripartite system), còn gọi rõ hơn là “tam quyền phân lập”,
một cơ chế thực tế để ngăn chặn sự tập trung quyền lực vào một nhóm người. Bên
cạnh đó, những bậc thầy về cách mạng cũng không mơ hồ vẽ ra những bức tranh
tương lai toàn màu hồng, kiểu như “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”. Thực
tiễn hơn hai thế kỷ qua cho thấy sức sống mãnh liệt và tính cách mạng thực sự
của mô hình quyền lực đó.
Ở Việt Nam ngày càng thấy rõ rằng chỉ có
đi theo con đường mà các nước văn minh đã đi qua mới có cơ hội thoát khỏi tấn
bi hài kịch của mấy chục năm qua.
0 comments:
Đăng nhận xét