Trong đời Nguyễn Du có ba sự việc liên can đến Trung Quốc:
Năm 1803, Nguyễn Du được cử
lên ải Nam Quan tiếp sứ nhà Thanh sang phong sắc cho vua Gia Long.
Năm 1820 Gia Long qua đời, Minh Mạng nối ngôi. Lúc này Nguyễn Du được cử đi
làm chánh sứ sang nhà Thanh báo tang và cầu phong nhưng ông bị
bệnh dịch chết ngày mồng 10 tháng 8 AL
(16-9-1820) thọ 54 tuổi. Tương truyền: "Khi ốm nặng, ông không uống thuốc,
bảo người nhà sờ tay chân. Họ nói: đã lạnh rồi. Ông bảo: Được! Rồi mất. Không
trối lại một lời".
Ngoài ra, ông còn hai tập thơ chữ Hán khác:
1 – “Thanh Hiên thi tập” gồm 78 bài, sáng tác trong thời gian ông sống ở
quê hương xứ Nghệ, trước khi ra làm quan triều Nguyễn
2 - .”Nam Trung tạp ngâm” gồm 40 bài, sáng tác trong thời ông làm quan
triểu Nguyễn ở Huế, Quảng Bình và một số địa phương khác từ Hà Tĩnh trở vào.
Phần này chỉ điểm qua một vài bài thơ trong “Bắc hành tạp lục”.
*
Nguyễn Du vốn rất đa sầu đa cảm, tuy nhiên khi dạo chơi hay lưu lạc ở
một nơi nào trong nước, nỗi buồn thi nhân chỉ thấy mang mang:
"Niên
niên thu sắc hồn như hử
Nhân tại tha hương bất tự tri".
(Giang
Đầu Tản Bộ)
(Hồn thu vẫn tự bao giờ
Người xa quê cũ chẳng ngờ đó thôi)
Hay:
“Vi lô san
sát hơi may
Một trời
thu để riêng ai một người” (Truyện
Kiều)
Nhưng ở Trung Quốc, Nguyễn Du đã có những đêm:
Suốt
đêm tiếng thanh la đánh không ngừng,
Cô
độc ngồi bên ngọn đèn đến tận sáng.
Mấy
tuần nhớ nước lòng buồn như chết,
Ðường
đi toàn gặp kẻ không quen.
Chân
núi đầy bùn lún cả ngựa,
Bên
khe suối quái tinh già ẩn nấp.
Khách
tha hương tình cảm không có hạn,
Huống
gì đường tới núi Yên còn xa vạn dặm
(Triệt dạ la thanh bất tạm đình,
Cô đăng tương đối đáo thiên minh.
Kinh tuần khứ quốc tâm như tử,
Nhất lộ phùng nhân diện tẫn sinh.
Sơn lộc tích nê thâm một mã,
Khê tuyền phục quái lão thành tinh.
Khách tình chí thử dĩ vô hạn,
Hựu thị Yên Sơn vạn lý thành).
(Mạc Phủ
Tức Sự)
- Và những cảm giác ghê rợn khi đi thuyền
trên sông Minh Ninh:
Trên
ghềnh nghe có tiếng gì?
Tựa
như rồng nước giận ầm ầm như sấm.
Dưới
ghềnh thấy có chuyện gì?
Như
cung nỏ căng bắn tên đi thật xa
Nước
chảy muôn dặm không ngừng,
Núi
cao kề cận bờ như bức tường thành.
Dẫy
đầy hòn đá dị kỳ xít nhau
La
liệt tựa như rồng, rắn, hổ, beo trâu ngựa
Lớn
như nhà, nhỏ như nắm tay cũng có
Hòn
cao sừng sững, hòn thấp ngủ nằm
Hòn
thẳng như chạy, hòn uốn như suối
Nghìn
hình muôn vẻ nói sao hết lời
Rắn
rồng ẩn hiện dưới sâu vực thẳm
Sóng
vỗ ầm ầm tung bọt ngày đêm
Mùa
hạ nước lũ mạnh như sôi sùi bọt
Cuộc
hành trình ba ngày thuyền, lòng dạ bồn chồn,
Lòng
dạ bồn chồn chứa nhiều lo sợ
Hiểm
nguy thuyền đắm biết chìm sâu mực nào
Rằng
nghe Trung Quốc đường bằng phẳng
Ngờ
đâu đường Trung Quốc lại thế này!
(Than thượng hà sở văn?
Ứng long kích nộ lôi điền điền,
Than hạ hà sở kiến?
Nỗ cơ kịch phát thủy ly huyền,
Nhất tả vạn lý vô đình yên,
Cao sơn giáp ngạn như tường viên.
Trung hữu quái thạch sâm sâm nhiên,
Hữu như long, xà, hổ, báo,ngưu, mã
la kỳ tiền.
Đại giả như ốc, tiểu như quyền.
Cao giả như lập, đê như miên,
Trực giả như tẩu, khúc như tuyền,
Thiên hình vạn trạng nan tận ngôn.
Giao ly xuất một thành trùng uyên.
Dũng đào phún mạt nhật dạ thanh hôi
huyên.
Hạ lạo sơ trướng phí như tiên.
Nhất hành tam nhật tâm huyền huyền,
Tâm huyền huyền đa sở úỵ
Nguy hồ đãi tai cốt một vô để,
Công đạo Trung Hoa lộ thản bình,
Trung Hoa đạo trung phù như thị!)
(Ninh
Minh Giang Chu Hành)
- Cảm
giác ấy đã xuất hiện ngay từ khi qua cửa ải Quỷ Môn ở Lạng Sơn:
Thương
cho biết bao người phải đi qua lại.
Gai
chông lấp cả đường lối, đầy rắn hổ ẩn nấp,
Khí
chướng bốc đầy, ma quỷ tụ họp.
Gió
lạnh suốt đời xưa thổi vào xương cốt trắng,
Công
nghiệp lạ của tướng nhà Hán có chi mà đáng khen?
(Khả liên vô số khứ lai nhân.
Tắc đồ từng mãng tàng xà hổ,
Bố dã yên lam tụ quỉ thần.
Chung cổ hàn phong xuy bạch cốt,
Kỳ công hà thủ Hán tương quân) (1)
(Quỉ Môn Quan)
(1)
- Câu “Kỳ công hà thủ Hán tương quân”
nhắc chuyện Mã viện mang quân sang đánh Giao chỉ đã làm cho bao nhiêu lính Tàu
vùi xương. Nguyễn Du bảo, sao gọi thế là chiến công được!
- Rồi, bao
nhiêu câu hỏi lần khuất, ngay từ khi đến cửa thành Ải Nam Quan:
Lý Trần cựu sự diểu nan tầm,
Tam bách niên lai trực đáo câm
(kim).
Lưỡng quốc bình phân cô luỹ diện,
Nhất quan hùng trấn vạn sơn tầm.
Địa thiên mỗi vị truyền văn ngộ,
Thiên cận tài tri giáng trạch thâm.
Đế khuyết hồi đầu bích vân biểu,
Quân thiều nhĩ bạn hữu dư âm.
(Trấn
Nam
Quan)
(Chuyện
cũ Lý Trần khó mà tìm hiểu,
Ba
trăm năm trở lại đến bây giờ.
Hai
nước phân chia tại cửa thành này,
Một
cửa ải hùng vĩ giữa muôn ngọn núi.
Lời
truyền lại gây hiểu lầm trong trời đất,
Gần
mặt trời thấm nhuần mưa giáng xuống.
Thiếu
xa vương quay đầu trông qua tầng mây biếc,
Nhạc
quân thiều dư âm còn nghe thấy trong tai).
Cứ
thế, cứ thế, những câu hỏi, những suy tư về quan hệ hai nước trong lịch sử xuất
hiện đó đây:
- Đến miếu Mã Phục Ba, Nguyễn Du gợi chuyện Mã
Viện.
Mã
Viện người đời Đông Hán đã ngoài 60 vẫn còn muốn đi đánh trận lập công, vua
không muốn cho đi, Mã Viện mặc áo giáp nhảy lên ngựa tỏ mình còn khỏe, được vua
cười khen, phong là Phục Ba tướng quân. Tương truyền khi sang Giao Chỉ, Mã Viện
cho dựng cột đồng trụ ở Quảng Tây để phân định ranh giới đất Hán.
Khi
từ Giao Chỉ về Mã Viện có chở theo một xe hạt làm thuốc chữa bệnh nhưng bị gian
thần tố cáo là chở ngọc châu về. Vua giận, nên vợ con không giám mang thây Mã
Viện về quê mà chỉ chôn sơ sài ở Tây Thành.
Vua
Hán Quang Vũ cho vẽ chân dung 28 vị công thần ở gác Vân Đài, không có Mã Viện,
vậy mà người ta lại bắt dân Việt lập đền thờ. Nguyễn Du chê trách việc làm này:
Lục thập lão nhân cân lực suy,
Cứ an bị giáp tật như phi.
Điền đình chỉ bác quân vương tiếu,
Hương lý ninh tri huynh đệ bi.
Đồng trụ cận năng khi Việt nữ,
Châu xa tất cánh lụy gia nhi.
Tính danh hợp thướng Vân Đài họa,
Do hướng Nam trung sách tuế thì?
(Giáp
Thành Mã Phục Ba Miếu)
(Ông
già sáu mươi sức đà kém,
Vẫn
áo giáp phóng lên ngựa nhanh như bay.
Nơi
cung điện mong chuốc được nụ cười của vua,
Chẳng
kể đến nỗi thương xót của anh em.
Cột
trụ đồng chỉ lừa phụ nữ Việt,
Xe
ngọc mang về thêm lụy vợ con.
Gác
Vân Đài tên ông nên được vẽ,
Chứ
sao phương Nam lại phải thờ cúng ông?)
- Chuyện
Mã Viện còn được mai mỉa trong bài “Thơ Đề Miếu Mã Phục Ba Ở Đại Than”:
Tạc thông lĩnh đạo định Viêm khư,
Cái thế công danh tại sử thư.
Hướng lão đại niên căng quắc thước,
Trừ y thực ngoại tẫn doanh dư
Ðại Than phong lãng lưu tiền liệt,
Cổ miếu tùng sam cách cố lư.
Nhật mộ thành tây kinh cức hạ,
Dâm đàm di hối cánh hà như.
(Đề Ðại
Than Mã Phục Ba Miếu)
(Mở
đường Ngũ lĩnh qua đánh gò Viêm,
Tên
tuổi công danh lưu trong sử sách.
Về
già tuổi lớn còn khoe sức,
Ngoài
cơm ăn áo mặc, gì cũng thừa.
Sóng
gió Đại Than lưu tên ngày trước,
Miếu
cũ tùng bách xa cách làng cũ.
Trong
chiều tối phía tây thành đầy cây gai
Nơi
Hồ Tây lời hối giờ ra sao?)
Tương
truyền, khi Mã Viện xin được lãnh nhiệm sang đánh Hai Bà Trưng, em họ là Thiều
Du nói: “Người ta sinh ra cốt ăn mặc vừa đủ thôi, nếu cầu thêm thừa thãi thì
chỉ khổ thân.”. Đóng quân ở Dâm Đàm (Hồ Tây), thấy mặt hồ đầy khí lam chướng,
diều lượn mặt hồ. Mã Viện nghĩ hối hận nói: “Nay nghĩ lại lời Thiếu Du thấy nói
đúng nhưng không làm sao được nữa”
- Đi qua đất cũ của Triệu Đà, Nguyễn Du nhắc
chuyện đế vương, phiên thần:
Khả liên thế đại tương canh diệt,
Bất cập man di nhất lão phu.
(Triệu
Vũ Đế cố cảnh)
Thương
cho thời đại đời thay đời,
Chẳng
bằng ông lão đất man di.
Khi
nhà Tần suy vong, Triệu Vũ Đế, tức Triệu Đà nổi lên hùng cứ một phương tự xưng
Nam Việt Vũ Vương. Hán Cao Tổ lên ngôi, sai Lục Giả xuống phong Triệu Đà làm
Nam Việt Vương. Sau khi chiếm thêm mấy ấp ở Trường Sa, Triệu Đà xưng Nam Việt
Vũ Đế. Hán Văn Đế lại sai Lục Giả xuống dụ bỏ hiệu đế để giữ chức phiên thần.
Trên đây là câu của Triệu Đà ghi tờ biểu đưa cho Lục Giả về dâng Hán Văn Đế.
Ngoài
quan hệ Việt Trung, Nguyễn Du còn nêu những nhận xét về chính trị-xã hội Trung
Quốc
- Đây là nghịch cảnh nơi triều chính:
Hoàng Sào
Binh Mã
Đại tiểu Hoa sơn sổ lý phân,
Hoàng Sào di tích tại giang tân.
Khởi tri Kim Thống Tần trung đế,
Nãi xuất Tôn Sơn bảng ngoại nhân.
Ngộ quốc mỗi nhân câu hạn lượng,
Cùng thời tự khả biến phong vân.
Viễn lai nghĩ vấn thiên niên sự,
Giang hộ dao đầu nhược bất văn.
(Hoàng
Sào Binh Mã)
(Núi
Hoa lớn nhỏ chia cách nhau vài dặm,
Hoàng
Sào lưu lại di tích ở bến sông.
Biết
là vua Kim Thống của đất Tần.
Là
người đội sổ bảng thi như Tôn Sơn,
Lỡ
lầm việc nước vì gia phép câu nệ hẹp hòi,
Gặp
thời tận cũng biến hóa được chuyện gió mâỵ
Khách
từ xa muốn hỏi chuyện ngàn năm trước,
Ông
lái thuyền chỉ lắc đầu không thốt lời).
Hoàng
Sào là người đời Đường, quê ở Sơn Đông, học giỏi, nghĩa hiệp, hay cứu giúp
người nghèo, sau một cuộc khởi nghĩa kéo dài 10 năm (875-884), Hoàng Sào vào
được Trường An, lên ngôi Hoàng Đế, quốc hiệu Đại Tề; trong khi vua Kim Thống
chỉ vào hạng Tôn Sơn là người đội sổ bảng thi.
- Đây là cung
cách cư xử với công thần:
Trung nguyên đại thế dĩ đồi đường,
Kiệt lực cô thành khống nhất phương.
Chung nhật tử trung tâm bất động,
Thiên thu địa hạ phát do trường
Tàn Minh miếu xã đa thu thảo,
Toàn Việt sơn hà tận tịch dương
Cộng đạo Trung Hoa thượng tiết
nghĩa,
Như hà hương hỏa thái thê lương.
(Quế
Lâm Cù Các Bộ)
(Triều
đại lớn Trung Nguyên đã suy sụp,
Ông
sức tàn vẫn nhất định giữ thành.
Ngày
chót sắp chết tâm không thay đổi,
Ngàn
năm dưới lòng đất tóc vẫn dài.
Miếu
xã nhà tàn Minh đầy cỏ thu,
Vùng
đất núi Việt nhuốm bóng chiều tà.
Dân
Trung Hoa nghe nói trọng tiết nghĩa,
Sao
đây hương khói tiêu điều thảm thê).
Cù
Các Bộ tức Cù Thức Trĩ người đời Minh, làm quan được tới chức Lâm Quế Bá. Lúc Mãn
Châu chiếm Trung Quốc, vua Minh chạy vào Vân Nam, ông ở lại giữ thành Quế Lâm
(Quảng Tây). Thành bị vây hãm, Thức Trĩ chết theo thành.
- Đây là số
phận kẻ tài hoa và những bất công xã hội:
Thái Bình cổ sư thô bố y,
Tiểu nhi khiên vãn hành giang mi
Vân thị thành ngoại lão khất tử,
Mại ca khất tiền cung thần xuy.
Lân chu thời hữu hiếu âm giả,
Khiên thủ dẫn thướng thuyền song hạ.
Thử thời thuyền trung ám vô đăng,
Khí phạn bát thủy thù lang tạ.
Mô sách dẫn thân hướng tọa ngung.
Tái tam cử thủ xưng đa tạ.
Thủ vãn huyền sách khẩu tác thanh,
Thả đàn thả ca vô tạm đình.
Thanh âm thù dị bất đắc biện,
Đãn giác liêu lượng thù khả thinh.
Chu tử tả tự vị dư đạo:
”Thử khúc Thế Dân dữ Kiến Thành”.
(1)
Quan giả thập số tịnh vô ngữ,
Đãn kiến giang phong tiêu tiêu giang
nguyệt minh.
Khẩu phún bạch mạt, thủ toan xúc,
Khước tọa, liễm huyền, cáo chung
khúc.
Đàn tận tâm lực cơ nhất canh,
Sở đắc đồng tiền cận ngũ lục.
Tiểu nhi dẫn đắc há thuyền lai,
Do thả hồi cố đảo đa phúc.
Ngã sạ kiến chi, bi thả tân:
Phàm nhân nguyện tử bất nguyện bần.
Chỉ đạo Trung Hoa tẫn ôn bão,
Trung Hoa diệc hữu như thử nhân!
Quân bất kiến sứ thuyền triêu lai
cung đốn lệ.
Nhất thuyền, nhất thuyền doanh nhục
mễ.
25
Hành nhân bão thực tiện khí dư,
Tàn hào lãnh phạn trầm giang để.
(Thái Bình Mại Ca Giả)
(Ở
Thái Bình có người mù mặc áo vải thô,
Cùng
đứa trẻ dẫn đường bên bờ sông.
Già
lão hành khất ngoài thành,
Hát
rong kiếm tiền bát gạo nấu ăn.
Thuyền
bên cạnh có người ưa nghe hát,
Nắm
tay dẫn xuống sát cửa thuyền.
Bấy
giờ thuyền tối không ánh đèn,
Cơm
rớt, canh trào đổ bừa bãi.
Già
mù sờ soạng ngồi một góc,
Hơn
ba lần giơ tay xin cám ơn.
Tay
nắn giây đàn cất tiếng hát vang,
Đàn
hát một hơi không ngừng không nghỉ.
Lời
ca tiếng lạ ta không hiểu được,
Nhưng
âm điệu réo rắt dễ nghe
Nhà
thuyền viết giấy cho hay:
“Đây
là bài hát Thế Dân Kiến Thành”.
Hơn
mười thính giả lặng ngắt như tờ,
Trong
gió hiu hiu, trên sông trăng sáng.
Ông
già miệng sùi bọt, tay rời rã,
Ngồi
lại, đặt đàn thưa hát đã xong.
Gắng
hết sức lực hầu một trống canh,
Lượm
nhặt lên được năm sáu đồng tiền.
Đứa
trẻ nhỏ dắt lão rời bờ thuyền,
Còn
ngoảnh lại ngỏ lời chúc phúc.
Ta
thấy thế mà trạnh lòng thương sót ,
Là
người thà chết còn hơn nghèọ
Ta
thường nghe đất Trung Hoa no ấm,
Sao
Trung Hoa cũng có kẻ khổ thế nàỵ
Biết
lệ cung phụng đoàn đi sứ thuyền hàng ngày,
Thuyền
nào thuyền nấy thịt gạo ê hề.
Mọi
người ăn uống no nê, dư thừa vứt bỏ,
Cơm
nguội, thức ăn thừa đổ chìm xuống đáy sông.
Cho
nên, hỡi các hồn oan, xin hãy đừng về, vì: “Đông tây nam bắc không nơi tựa/ Lên
trời xuống đất đều không ổn”, vì: “Mặt đất đâu đâu đều là sông Mịch La ” – nơi
Khuất Nguyên đã phải dầm mình tự vẫn.
Hồn hề ! Hồn hề ! hồ bất qui?
Đông tây nam bắc vô sở ỵ
Thướng thiên há địa giai bất khả,
Yên, Dĩnh thành trung lai hà vi? (1)
Thành quách do thị, nhân dân phi,
Trần ai cổn cổn ô nhân ỵ
Xuất giả khu xa, nhập cứ tọa,
Tọa đàm lập nghị giai Cao, Quì. (2)
Bất lộ trảo nha dữ giác độc,
Giảo tước nhân nhục cam như di !
Quân bất kiến Hồ Nam sổ bách châu,
Chỉ hữu sấu tích, vô sung phì.
Hồn hề ! Hồn hề ! suất thử đạo
Tam Hoàng chi hậu phi kỳ thì. (3)
Tảo liễm tinh thần phản thái cực,
(4)
Thận vật tái phản linh nhân xi,
Hậu thế nhân gian giai Thượng Quan
(5)
Đại địa xứ xứ giai Mịch La, (6)
Ngư long bất thực, sài hổ thực,
Hồn hề ! Hồn hề ! nại hồn hà?
(Phản Chiêu Hồn)
(Hồn
ơi! Hồn ơi! sao chẳng về?
Đông
tây nam bắc không nơi tựa.
Lên
trời xuống đất đều không ổn,
Đất
Yên đất Dĩnh về làm chi?
Thành
quách chẳng khác xưa nhưng lòng dân đã khác,
Bụi
nhiều nhuốm bẩn dơ quần áo.
Đi
ra thì xe ngựa, ở nhà thì vênh váo,
Ngồi
bàn tán chuyện ông Quì ông Cao.
Không
hề để lộ nanh vuốt ác độc.
Nhưng
cắn xé người ngọt như đường!
Hồn
có thấy cả trăm châu vùng Hồ Nam,
Toàn
người gầy ốm có ai mập đâu.
Hồn
ơi! Hồn ơi! nếu theo đường đó,
Thì
sau Tam Hoàng nay đã lỗi thời.
Sao
bằng thu thập tinh thần về với cõi hư vô,
Chớ
về làm chi để người mai mỉa.
Đời
sau ai ai cũng Thượng Quan cả,
Mặt
đất đâu đâu đều là sông Mịch La.
Cá
rồng mà không ăn thì hùm beo cũng nuốt,
Hồn
ơi! Hồn ơi! biết làm sao đây?)
*
Sử
sách ghi rằng để củng cố mối bang giao hữu hảo, đồng thời đề phòng ý đồ tái lập
ách đô hộ của Trung Quốc, các vua Nguyễn, đặc biệt là vua Minh Mạng rất quan
tâm đến tình hình nhà Thanh. Ông đã yêu cầu sứ thần đi sứ nhà Thanh viết “Sứ
trình nhật ký” và phải viết chi tiết những điều mắt thấy tai nghe ở Trung Quốc.
Tháng 4 năm 1832, vua Minh Mạng khiển trách ba sứ giả được cử đi đã chỉ ghi đại
khái về tình hình nhà Thanh không như ý đồ của ông. Ông ra lệnh, sau này các sứ
giả phải ghi lại chính xác tình hình nhà nước và dân tình nhà Thanh còn những
địa danh, v.v… đã biết thì không cần phải ghi lại. Phải chăng Nguyễn Du đã thực
hiện nhiệm vụ sứ thần này bằng thơ.
Trong âm vang những ngày Hà Nội xuống đường chống Trung Quốc xâm lấn
Nguyễn Thanh Giang
Số nhà 6 – Tập thể Địa Vật lý Máy bay
Trung Văn – Từ Liêm – Hà Nội
Mobi: 0984 724 165
0 comments:
Đăng nhận xét