Kiến thức của một người là phần còn lại
sau khi người đó đã học và đã quên. Trong cái "phần còn lại" khiêm
tốn này, người ta nhận biết một thực tế rằng : mỗi môn học thường có một số câu
nói có tính hoặc định đề, hoặc quy luật, hoặc tâm lý tổng quát khiến cho người
theo học nhớ nằm lòng một cách dễ dàng.
Những người đã học hình luật một cách tổng quát hẳn nhiên không thể quên được câu nói sau đây : "Kể từ sau khi ra khỏi cổng nhà tù, phạm nhân mới thực sự cảm thấy y là một người tù". Phạm nhân ở đây có thể là tù hình sự, có thể là tù chính trị. Trong phạm vi bài này, tôi chỉ đề cập tới tù chính trị. Nói rõ hơn, bài viết này nhằm giải đáp câu hỏi : Tại sao sau khi lấy lại tự do, người cựu tù chính trị mới thực sự cảm thấy họ là tù chính trị, mới thực sự biết được họ là ai ?
Những người đã học hình luật một cách tổng quát hẳn nhiên không thể quên được câu nói sau đây : "Kể từ sau khi ra khỏi cổng nhà tù, phạm nhân mới thực sự cảm thấy y là một người tù". Phạm nhân ở đây có thể là tù hình sự, có thể là tù chính trị. Trong phạm vi bài này, tôi chỉ đề cập tới tù chính trị. Nói rõ hơn, bài viết này nhằm giải đáp câu hỏi : Tại sao sau khi lấy lại tự do, người cựu tù chính trị mới thực sự cảm thấy họ là tù chính trị, mới thực sự biết được họ là ai ?
Tù có nghĩa là không được tự do. Người ta có thể bị
mất tự do về thể chất, tức là bị câu thúc thân thể. Người ta cũng có thể bị mất
tự do về tinh thần, tức là tư tưởng bị giam bó hoặc bị ràng buộc bởi một khuôn
phép nào đó.
Trong thời gian còn bị giam cầm trong các nhà tù, người tù chính trị tuy bị mất
quyền tự do đi lại, tự do giao dịch với xã hội, nhưng trong phạm vi nhà giam,
trong giao dịch giữa người tù với những người bạn đồng tù, người tù không tìm
thấy những ngăn cách đáng kể. Tất cả đều áo rách vai, quần thủng đáy ; tất cả
đều cầm cự với thần đói bằng khoai mì trắng, nước muối trong ; tất cả đều vào tù
với cái "tội" đã yêu nước theo cung cách mà mỗi người đều tự cho là
hữu lý nhất.
Người tù chính trị bị giam càng lâu càng cảm thấy thật
rõ rằng nhà tù chỉ có thể trói buộc thể xác chứ không thể trói buộc tinh thần.
Ðời sống tinh thần chỉ bị bó hẹp khi nào một người bị những người chung quanh
chối từ giao tiếp. Mặt khác, nói đến tù, người ta không thể không bàn đến trách
nhiệm. Trách nhiệm chủ quan và trách nhiệm khách quan. Một người tri tình gia
nhập một tổ chức chống cộng tại Việt Nam sau năm 1975. Nếu bị nhà cầm
quyền Cộng Sản Việt Nam (CSVN) bắt giam, người này trở thành một tù chính trị
trên bình diện trách nhiệm chủ quan. Trách nhiệm chủ quan của một người là
trách nhiệm của đương sự đối với những hành vi do chính đương sự chủ động gây
ra.
Thế nào là trách nhiệm khách quan ? Xin bạn hãy lấy tỷ dụ luận để làm khởi điểm cho lý luận diễn dịch : trong tai nạn lưu thông, nếu chủ xe không là tài xế và nếu tài xế là người có lỗi trong tai nạn, thì trách nhiệm bồi thường phải quy vào chủ xe (bảo hiểm của chủ xe) chứ không quy vào tài xế. Trách nhiệm của chủ xe như vừa kể gọi là trách nhiệm khách quan.
Trách nhiệm khách quan là trách nhiệm mà một người phải gánh chịu về những hành vi không do đương sự tri tình tạo ra. Tương tự như vậy, một thanh niên sanh ra tại Miền Nam Việt Nam, rồi lớn lên, rồi đi học, rồi tốt nghiệp kỹ sư Công Chánh. Sau khi nhập ngũ, do lệnh động viên, "ông" Kỹ sư Công Chánh trở thành "ông" Sĩ quan Công Binh. Sau năm 1975, "ông" Sĩ quan Công Binh trở thành "ông" tù nhân cải tạo. Trong tỷ dụ này, quá trình hình thành một tù nhân cải tạo rõ ràng là một quá trình tác động của luật pháp và hành chánh thuộc hai chế độ chính trị Nam và Bắc đối nghịch. Nhân vật thanh niên là một nhân vật hoàn toàn thụ động.
Trách nhiệm khiến người Sĩ Quan Công Binh trở thành người tù cải tạo là trách nhiệm khách quan. Nói như vậy hoàn toàn không hàm ngụ ý nghĩa rằng tất cả cựu quân nhân và cựu công chức của Miền Nam Việt Nam trước năm 1975 đều đã sinh sống triệt để thụ động như ông Kỹ Sư Công Chánh trên kia. Sự phân tích tù chính trị qua hai bình diện khách quan và chủ quan chỉ nhằm đi đến kết luận mạnh mẽ rằng : Tất cả những người đã bị CSVN giam cầm vì lý do chính trị, từ người âm mưu lật đổ chế độ cho đến những cựu quân nhân và cựu công chức, kể cả những người thụ động nhất, đều phải được nghiêm túc ghi nhận : họ là những tù chính trị.
Thế nào là trách nhiệm khách quan ? Xin bạn hãy lấy tỷ dụ luận để làm khởi điểm cho lý luận diễn dịch : trong tai nạn lưu thông, nếu chủ xe không là tài xế và nếu tài xế là người có lỗi trong tai nạn, thì trách nhiệm bồi thường phải quy vào chủ xe (bảo hiểm của chủ xe) chứ không quy vào tài xế. Trách nhiệm của chủ xe như vừa kể gọi là trách nhiệm khách quan.
Trách nhiệm khách quan là trách nhiệm mà một người phải gánh chịu về những hành vi không do đương sự tri tình tạo ra. Tương tự như vậy, một thanh niên sanh ra tại Miền Nam Việt Nam, rồi lớn lên, rồi đi học, rồi tốt nghiệp kỹ sư Công Chánh. Sau khi nhập ngũ, do lệnh động viên, "ông" Kỹ sư Công Chánh trở thành "ông" Sĩ quan Công Binh. Sau năm 1975, "ông" Sĩ quan Công Binh trở thành "ông" tù nhân cải tạo. Trong tỷ dụ này, quá trình hình thành một tù nhân cải tạo rõ ràng là một quá trình tác động của luật pháp và hành chánh thuộc hai chế độ chính trị Nam và Bắc đối nghịch. Nhân vật thanh niên là một nhân vật hoàn toàn thụ động.
Trách nhiệm khiến người Sĩ Quan Công Binh trở thành người tù cải tạo là trách nhiệm khách quan. Nói như vậy hoàn toàn không hàm ngụ ý nghĩa rằng tất cả cựu quân nhân và cựu công chức của Miền Nam Việt Nam trước năm 1975 đều đã sinh sống triệt để thụ động như ông Kỹ Sư Công Chánh trên kia. Sự phân tích tù chính trị qua hai bình diện khách quan và chủ quan chỉ nhằm đi đến kết luận mạnh mẽ rằng : Tất cả những người đã bị CSVN giam cầm vì lý do chính trị, từ người âm mưu lật đổ chế độ cho đến những cựu quân nhân và cựu công chức, kể cả những người thụ động nhất, đều phải được nghiêm túc ghi nhận : họ là những tù chính trị.
Sau khi đã xác nhận thành phần nội dung của tù chính trị, chúng ta hãy tìm hiểu
tâm trạng của tù chính trị kể từ sau khi họ từ giã cổng nhà tù. Có lẽ chúng ta
nên khởi hành từ những tâm trạng tệ hại nhất.
Ðiều bị gọi là "tâm trạng tệ hại nhất" chính là tâm trạng của những
cựu tù nhân mà trong thời gian bị giam cầm ở các trại tù chính trị họ đã cam
tâm nhận lời làm "mật báo viên" (antenne) cho giám thị trại tù. Do
vai trò "antenne" những vị tù phản trắc này được ăn no hơn một tí,
mặc ấm hơn một tí... họ trở thành "người tù quyền lực" giữa đám bạn
tù cùng khổ. Thế nhưng ngay sau khi được trả tự do, họ trở thành những cựu tù
khốn khổ và hèn hạ nhất : họ bị bạn bè xa lánh, họ thường trực bị ám ảnh bởi
những cuộc báo thù có thể đến với họ bất kỳ lúc nào. Quả thực "sau khi từ
giã cổng nhà tù, người cựu tù antenne mới thực sự cảm thấy họ là tù". Tâm
trạng của cựu tù antenne thật đau đớn nhưng đơn giản. Dĩ nhiên chúng ta không
nên tốn nhiều giấy mực cho những người tù mất phẩm chất này.
Thế nào là người tù có phẩm chất ? Người tù có phẩm
chất là người tù : một mặt tự mình duy trì tính bất khuất, mặt khác khích lệ
tất cả các bạn tù phải quyết tâm duy trì tính bất khuất trước mọi hành hạ cũng
như dụ dỗ của hàng ngũ công an. Tuy nhiên có những người tù đã thể hiện được
phẩm chất cao quí trong suốt thời gian bị giam cầm, nhưng ngay sau khi ra khỏi
cổng nhà tù, họ lại có những biến thái rất đáng quan ngại :
- Biến Thái I : Có những cựu tù nhân do những hành hạ thái quá trong trại tù, nay đã
bị suy nhược về tinh thần cũng như thể chất. Họ mang mặc cảm tự ty đối với
những người chung quanh về trình độ hiểu biết, trong nghiệp vụ chuyên môn, về
sức khỏe cũng như về nghị lực trong công việc. Ngoài những lo lắng cho đời sống
bản thân và đời sống gia đình, họ hầu như không muốn nghĩ đến điều được trang
trọng gọi là dòng tâm-sinh-mệnh dân tộc.
- Biến Thái II : Có những cựu tù nhân tự cho rằng những gì họ học hỏi trong tù và
nhất là những gì họ đã phải chịu đựng trong tù là tuyệt đối hoàn hảo, tuyệt đối
khả kính. Kể từ sau lúc họ ra khỏi nhà tù, mọi người chung quanh có nghĩa vụ
phải kính trọng họ vô điều kiện. Trong tất cả những buổi hội họp bàn chuyện phục
vụ quê hương dân tộc, nếu có chiếu ngồi thì chiếc chiếu dành cho họ phải là
chiếc chiếu duy nhất thượng hạng trong các loại "chiếu trên". Từ trên
chiếc chiếu duy nhất thượng hạng đó, họ nhìn những người chung quanh bằng đôi
mắt trịch thượng của đấng lãnh chúa nhìn thuộc viên của ông ta. Quan sát thái
độ của những cựu tù thuộc nhóm Biến Thái II, nhiều người liên tưởng đến tài
phiệt. Những kẻ dựa vào thành tích tài chánh của họ để lấn át người khác gọi là
tài phiệt. Những kẻ dựa vào thành tích ở tù để xem những người chung quanh như
thuộc viên, có lẽ đáng được gọi là "tù phiệt". Cuộc gặp gỡ giữa các
"tù phiệt" chẳng khác nào cuộc gặp gỡ giữa các quân nhân vô kỷ luật.
Quân nhân vô kỷ luật sẽ sản sinh ra nạn "kiêu binh". Tù phiệt sẽ sản
sinh ra "kiêu tù".
- Biến Thái III : Có những cựu tù nhân đã biến những kỷ niệm tệ hại trong tù thành
lòng thù hận cứng rắn đối với Cộng Sản Việt Nam. Ðành rằng nguồn gốc của lòng
thù hận này là hữu lý, thế nhưng mỗi khi bàn thảo về tương lai Dân Tộc, mọi
người phải để lòng thù hận bên ngoài phòng họp. Chúng ta chống Cộng sản vì Cộng
sản gây tác hại đối với dòng sống Dân Tộc chứ không vì lòng thù hận phát xuất
từ trại tù. Thái độ chính trị thích nghi và chừng mực không bao giờ được hướng
dẫn bởi lòng thù hận. Hơn thế nữa, lòng thù hận rất nhiều khi đã đẩy người thù
hận rơi vào tình trạng cực kỳ nghịch lý : họ chống Cộng sản cứng rắn đến độ họ
đòi hỏi mọi người phải chống cộng theo đúng cung cách của họ. Người nào chống
cộng theo một cung cách mà họ cho là "khác lạ", lập tức người này sẽ
bị chụp mũ là tay sai của Cộng sản, là "trở cờ". Người ta bảo
"trời xanh có mắt", nhưng trong thực tế tôi thấy "quần chúng có
mắt". Chính nhờ "có mắt" cho nên quần chúng chẳng bao giờ quan
tâm tới ý kiến của những người thường xuyên chống cộng với thái độ hận thù ngun
ngút. Hận thù càng cao càng xa rời quần chúng và càng lạc hướng đấu tranh.
Cựu tù nhân nào vướng phải một trong ba Biến
Thái kể trên, cựu tù nhân đó đã tự cô lập hóa, tự giam bó tinh thần mình. Nói
đúng hơn : "Sau khi rời khỏi cổng nhà tù, người tù nào tự cô lập hóa thì
người tù đó sẽ thực sự cảm thấy đương sự là một người tù". Dĩ nhiên trong
tình trạng cô lập hóa, không người nào có thể tiếp tục phục vụ Dân Tộc. Thế
nên, cựu tù nhân chính trị giải trừ ba loại Biến Thái tâm lý nói trên không do
đòi hỏi của các tiêu chuẩn đạo đức cổ điển, mà do nhu cầu phục vụ Dân Tộc. Ðành
rằng chỉ có một vài cá nhân trong tập thể cựu tù chính trị đã vướng mắc Biến
Thái, tuy nhiên để tránh hiện tượng "con sâu làm rầu nồi canh" bài
viết này đã thành hình. Mặt khác, hoàn cảnh chính trị hiện nay vô cùng phức tạp
:
-Những người Cộng sản Việt Nam đang rơi vào khủng hoảng tư
tưởng không lối thoát.
-Những người trước kia chống cộng, nay đã "trở cờ". Họ cho rằng
chống cộng ngày nay đã trở thành không thực tế, mặc dầu họ không hiểu thực tế
là gì và lại càng không hiểu nội dung cuộc khủng hoảng của cộng sản. Họ không
tự nhận biết họ đang nộp đơn xin làm tay sai cho một ông chủ mà thủ tục phá sản
của ông này đã đi vào bước thứ nhất.
-Những người khác rất trung kiên chống cộng, chống ồn
ào, chống vô điều kiện, chống chẳng cần quan tâm đến tương lai của cuộc đấu
tranh, chống chẳng cần biết : Làm thế nào để kết hợp đại khối Dân Tộc ? Mô hình
của xã hội Việt Nam
sẽ là mô hình nào ? Bằng cách nào chúng ta tiến tới mô hình đó ?
-Sau cùng là khối đa số Việt Nam thầm lặng.
Khối này thường xuyên cảm thấy lòng quặn đau mỗi lần nghĩ đến quê hương. Khối
này ngày lại ngày chau mày nhíu mặt trước những chuyển biến chính trị phức tạp
của quốc nội cũng như quốc tế.
Trong hoàn cảnh chính trị rối ren như đã sơ phác, tập
thể Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam
không thể đóng vai khách qua đường. Tuy nhiên muốn làm một điều gì đó cho quê
hương, trước tiên mỗi người cựu tù chính trị phải quay về với chính mình để
triệt để gột rửa các Biến Thái Tâm Lý nói trên, nếu có. Chỉ có quay về với
chính mình như vừa nêu, người cựu tù chính trị mới nhận biết : Tù Chính Trị,
Anh Là Ai ?
- Anh là Người đã cống hiến cho quê hương một phần lớn
mồ hôi, máu và nước mắt trong lao tù.
- Anh là Người sau khi ra khỏi nhà tù vẫn tiếp tục duy
trì một tâm lý vững vàng : không tự ty yếm thế ; không tù phiệt, kiêu tù ;
không phục vụ quê hương do lòng thù hận, mà do tim óc trong sáng của một chiến
sĩ cách mạng.
- Anh là Người quyết tâm tiếp tục phục vụ Dân Tộc như Anh
đã và đang phục vụ. Trên bước đường phục vụ Dân Tộc trong những ngày tới, Anh
thừa biết : mọi việc làm sẽ là Dã Tràng xe cát nếu chúng ta không hiểu được qui
luật Ðoàn Kết Dân Tộc, không thấy được mối tương quan biện chứng giữa Dân Tộc
Tính và Nhân Loại Toàn Tính, và không hình dung được cũng như không thể khai
thác được cuộc khủng hoảng tư tưởng vô tiền khoáng hậu của các quốc gia Cộng
Sản hiện nay.
Tù chính trị, Anh là ai ? Bây giờ, Anh đã biết rồi.
Kính mời Anh lên đường. Thân mến chúc Anh thành công.
1 comments:
Tuy tôi còn trẻ và do đó chưa bị đi tù tại nước Việt Nam, nhưng những chia sẻ chân tình của bạn Đỗ Thái Nhiên đã làm sáng tỏ những suy tư và hành động của người tù chính trị sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, vì trong sự giao tế với những đồng hương nầy (những người đã bị đi tù sau ngày 30 tháng 4 năm 1975) thì tôi đã nhận được những tín hiệu mà bạn Đỗ Thái Nhiên đã viết lên.
Cá nhân tôi thì tôi chỉ thương và xót xa cho những người tù chính trị trên vì với cái nhìn của tôi thì họ hoàn toàn vô tội.
Điều đáng buồn và tủi nhục là nhà nước việt nam lúc đó đã xem những người phục vụ cho chế độ VNDCCH tại Miền Nam là tay sai cho giặc (chính quyền Hoa Kỳ)và từ đó thì họ đã có một hành xử hết sức tàn bạo và dã man. Ngoài ra thì họ đã xem người dân Miền Nam như là thành phần phản động và do đó thì họ luôn luôn thẳng tay đàn áp mọi mặt.
So sánh chính sách và đường lối của nhà nước việt nam sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 với người dân Miền Nam và chính sách cùng đường lối của chính phủ nước Hoà Lan sau
ngày Hoà Lan được giải phóng từ thể chế Hitler thì là hai thái cực khác nhau. Chính phủ Hoà Lan đã xoá bỏ mọi nghi kỵ và thù hằn để hàn gắn vết thương dân tộc vì chiến tranh và thảm hoạ chiền tranh "dù lúc Hoà Lan bị xâm chiếm và có rất nhiều người dân đã phục vụ trong chế độ Hitler" để khôi phục đất nước. Nói cách khác là chính quyền Hoà Lan đã không bắt ai bỏ tù khi đó. Tuy nhiên nếu ai đó bị người dân gửi đơn tố cáo về những hành động vô nhân trong thời kỳ Hitler thì nhà nước sẽ xem xét, điều tra và rồi sẽ đem ra toà án để các quan toà phán xét. Đây là một hành xử nhân bản, đạo đức cùng đạo lý và công lý mà thế gian cần phải noi theo.
Cảm ơn bạn Đỗ Thái Nhiên đã chia sẻ sự nhận thức của mình đến mọi người và cũng cảm ơn diễn đàn đã thông tin.
Đăng nhận xét