Alain Phan Blog
Diễn từ sau 21 năm được giải Nobel Hòa Bình (ảnh Reuters) |
“The true measure of the justice of a system is the amount
of protection it guarantees to the weakest” và “It is not power that corrupts
but fear. Fear of losing power corrupts those who wield it and fear of the
scourge of power corrupts those who are subject to it”.
Không phải quyền lực làm cho tha hóa, mà chính là sự khiếp sợ.
Sự khiếp sợ đánh mất quyền lực làm tha hóa những kẻ đang nắm trong tay quyền lực, và sự khiếp sợ bị quyền lực trừng phạt làm tha hóa những người đang nằm dưới
tay quyền lực.
*
DIỄN TỪ NOBEL HÒA BÌNH AUNG SAN SUU KYI
(được trao giải năm 1991- đọc diễn từ ngày 16-6-2012 tại
Oslo, Na-Uy)
Thưa Ðức Vua và Hoàng hậu,
thưa các vị trong Hoàng gia,
thưa
các vị khách quý,
các thành viên của Ủy ban Nobel Na-Uy,
và các bạn thân mến,
Nhiều năm
trước, đôi khi tưởng như đã qua nhiều cuộc
đời, tôi đã từng nghe chương trình phát thanh “Desert Island Discs” (Bộ dĩa nhạc
Hoang Ðảo) với con trai nhỏ của tôi là Alexander ở Ðại học Oxford. Ðó là một
chương trình nổi tiếng (mà theo tôi biết ngày nay vẫn còn đang tiếp tục), ở đó có những người nổi tiếng từ mọi thành phần
trong xã hội được mời để nói về tám đĩa nhạc, một cuốn sách, bên cạnh Kinh
Thánh và bộ tác phẩm của Sheakspeare, với một vật xa xỉ mà họ muốn có bên mình
nếu như họ bị bỏ lại ngoài một hoang đảo. Khi chương trình kết thúc, cả hai
chúng tôi đều thích thú, Alexander hỏi tôi có nghĩ rằng một ngày nào đó mẹ có
thể được mời nói chuyện trong chương trình này không. “Tại sao lại không?”, tôi
đã nhẹ nhàng trả lời cháu. Vì Alexander biết rằng nói chung chỉ những người nổi
tiếng mới tham gia chương trình này, cháu tiếp tục hỏi tôi với một sự quan tâm
thành thật, rằng tôi nghĩ tôi có thể được mời vì lý do gì. Tôi nghĩ trong giây
lát rồi trả lời; “Có thể vì mẹ sẽ được giải Nobel về văn chương”, và cả hai
chúng tôi cùng cười. Dự đoán này nghe có vẻ thú vị nhưng rất khó thành hiện thực.
(Giờ đây tôi
không nhớ nổi tại sao tôi lại trả lời như thế, có lẽ vì lúc đó tôi vừa đọc một
quyển sách của một tác giả được trao giải Nobel, hay có lẽ vì danh nhân xuất hiện
trong chương trình Hoang Ðảo đã là một nhà văn nổi tiếng.)
Năm 1989,
khi người chồng quá cố của tôi (Michael Aris) đến thăm tôi trong kỳ hạn đầu của
quản thúc tại gia, anh ấy nói rằng một người bạn của anh là John Finnis đã đề cử
tôi cho Giải Nobel Hòa bình. Lần đó tôi cũng cười. Ngay lúc đó, Michael có vẻ
kinh ngạc, rồi anh nhận ra tại sao chuyện đó lại làm tôi cảm thấy buồn cười. Giải
Nobel Hòa bình? Một viễn ảnh đẹp, nhưng hoàn toàn bất khả! Vậy thì tôi cảm thấy
như thế nào khi tôi thực sự được trao giải Nobel vì Hòa bình? Câu hỏi này đã được
đặt ra với tôi nhiều lần và đây chắc chắn là dịp thích hợp nhất để xem giải Nobel có ý nghĩa như thế nào đối
với tôi, và hòa bình có ý nghĩa gì đối với tôi.
Như tôi đã
nói nhiều lần trong nhiều cuộc trả lời phỏng vấn, tôi đã nghe tin tức về việc
tôi được chọn trao giải Nobel Hòa bình trên đài phát thanh vào một buổi tối.
Tin tức ấy không đến với tôi cùng với sự ngạc nhiên bất ngờ vì tôi đã được nêu
tên như một ứng viên được đề cử trong một số chương trình truyền hình trước đó
vài tuần. Khi thảo bài nói chuyện này, tôi đã hết sức cố gắng nhớ lại xem phản ứng
tức thời của tôi lúc nghe thông báo ấy là như thế nào. Tôi nghĩ, tôi không còn
chắc chắn lắm, là một cái gì đại loại như: “Ồ! Vậy là họ đã quyết định trao giải
thưởng ấy cho tôi”. Có vẻ như nó không hoàn toàn là thực, vì theo một nghĩa nào
đấy tôi đã không cảm thấy chính tôi đang tồn tại hoàn toàn thực vào lúc đó.
Thường trong
những ngày bị quản thúc tại gia, có cảm tưởng như tôi không còn là một phần của
thế giới thực nữa. Ðã có một căn nhà vốn từng là thế giới của tôi, đã có một thế
giới của những người khác cũng không có tự do nhưng đã cùng sống chung nhau
trong nhà tù như một cộng đồng, và có một thế giới của những người tự do; mỗi
thế giới đó là một hành tinh khác biệt
theo đuổi đường đi của nó trong một vũ trụ dửng dưng. Ðiều mà giải Nobel
Hòa bình đã làm là một lần nữa kéo tôi trở về thế giới của con người ngoài khu
vực bị cô lập mà tôi đã sống; là khôi phục cảm giác về thực tại đối với tôi. Ðiều
này tất nhiên không xảy ra ngay tức thì, nhưng khi ngày tháng trôi qua và tin tức
về những phản ứng đối với giải thưởng đến tôi qua làn sóng phát thanh đã lắng
xuống, tôi bắt đầu hiểu ý nghĩa quan trọng của giải Nobel. Nó đã làm tôi trở về
thực tại một lần nữa; nó kéo tôi trở về cộng đồng con người rộng lớn. Và điều
quan trọng hơn nữa là giải Nobel đã thu hút sự chú ý của thế giới vào cuộc đấu
tranh cho dân chủ và quyền con người ở Miến Ðiện. Chúng tôi sẽ không bị quên
lãng.
Bị quên
lãng. Người Pháp nói rằng chia ly là đã chết đi một ít. Bị quên lãng cũng chính
là chết đi một ít. Ðó là sự mất mát những mối dây liên kết neo giữ chúng ta với
nhân loại. Khi tôi gặp những người Miến
Ðiện là lao động nhập cư và tị nạn trong chuyến thăm gần đây của tôi tại Thái
Lan, nhiều người đã khóc: “Xin đừng quên chúng tôi!”. Họ muốn nói rằng: “Xin đừng
quên cảnh ngộ khốn cùng tuyệt vọng của chúng tôi, xin đừng quên làm những gì bà
có thể làm để giúp chúng tôi, xin đừng quên chúng tôi cũng thuộc về thế giới của
bà” . Khi Ủy ban Nobel trao giải Nobel Hòa bình cho tôi, họ đã nhận ra rằng sự
đàn áp và cô lập của Miến Ðiện cũng là một phần của thế giới, họ đã nhận ra sự
thống nhất của nhân loại. Bởi vậy đối với tôi nhận giải Nobel Hòa bình về mặt
cá nhân có nghĩa là mở rộng mối quan tâm của tôi về dân chủ và quyền con người
ra khỏi biên giới quốc gia. Giải Nobel Hòa bình đã mở ra một cánh cửa trong tim
tôi.
Khái niệm
hòa bình của người Miến Ðiện có thể được giải thích như hạnh phúc nảy sinh từ sự
chấm dứt những yếu tố ngăn cản sự hài hòa và lành mạnh. Từ nyein-chan dịch theo
nghĩa đen là cái mát lành đến từ một ngọn lửa đã bị dập tắt. Ngọn lửa của đau
khổ và xung đột đang hoành hành dữ dội khắp nơi trên thế giới. Ở đất nước của
tôi, thái độ thù nghịch và hành động chiến tranh vẫn chưa mất đi ở những vùng
xa phía bắc; ở phía tây, bạo lực của các nhóm chủng tộc và tôn giáo đối lập đưa
tới kết quả đốt phá và giết người chỉ mới xảy ra cách đây ít ngày trước khi tôi
bắt đầu cuộc hành trình đưa tôi đến đây hôm nay. Tin tức về những hành động tàn
bạo ở những vùng khác trên trái đất thì đầy dẫy. Những bài báo tường thuật về nạn
đói, bệnh dịch, sự di tản, thất nghiệp, nghèo khổ, bất công, kỳ thị, thành kiến,
cuồng tín; tất cả đều là tình trạng hàng ngày của chúng ta. Nơi nào cũng có những
lực lượng tiêu cực gặm nhấm nền tảng của hòa bình. Nơi nào cũng có thể thấy sự
phung phí vật chất và nguồn lực con người một cách thiếu suy nghĩ, những thứ cần
cho sự bảo toàn hạnh phúc và sự hài hòa trong thế giới của chúng ta.
Thế chiến thứ
nhất tiêu biểu cho sự lãng phí kinh khủng tuổi trẻ và tiềm năng, một sự hoang
phí đầy tội ác đối với những sức mạnh tích cực trên hành tinh của chúng ta. Bài
thơ về kỷ nguyên này có một ý nghĩa quan trọng đối với tôi khi tôi
đã đọc nó lần đầu tiên vào lúc tôi bằng tuổi những người thanh niên trẻ phải
đương đầu với viễn cảnh bị héo tàn trước khi bừng nở. Một người thanh niên Mỹ
chiến đấu với lính lê dương Pháp đã viết trước khi bị giết năm 1916 là anh ta
có thể gặp cái chết của mình “ở một chiến hào ghê tởm nào đó”, “trên triền dốc
đầy vách đá ở một ngọn đồi mòn vẹt”, “vào nửa đêm ở một thành phố nào đó đang bốc
cháy”. Tuổi trẻ và tình yêu, và cuộc sống đã chết mãi mãi trong những nỗ lực vô
nghĩa để chiếm lấy những nơi chốn không tên, không ai nhớ tới. Và để làm gì? Gần
một thế kỷ qua đi, chúng ta vẫn chưa tìm thấy một câu trả lời thỏa đáng.
Ở mức độ ít
bạo động hơn, phải chăng chúng ta không cảm thấy tội lỗi về sự liều lĩnh, về sự
phung phí liên quan đến tương lai của chúng ta và nhân loại? Chiến tranh đâu phải
là đấu trường duy nhất nơi mà hoà bình bị giết chết. Bất cứ nơi nào sự đau khổ
bị làm ngơ thì ở đó sẽ có mầm mống của xung đột, bởi vì đau khổ làm hạ thấp con
người, gây ra cay đắng và làm người ta nổi giận.
Một điểm
tích cực của cuộc sống trong sự cô lập là tôi có khá nhiều thời gian để suy tư
về ý nghĩa của những ngôn từ và khái niệm mà tôi từng biết và từng chấp nhận
trong cả cuộc đời. Là một Phật tử, tôi đã nghe về dukha, thường được dịch là sự
đau khổ, từ khi tôi là một đứa trẻ nhỏ. Gần như ngày nào cũng thế, những người
lớn, và có khi cũng chẳng phải là ngừơi già cho lắm, những người quanh tôi thầm
thì “dukha, dukha” khi họ phải chịu đựng nỗi đau đớn thể xác hay nhức nhối tâm
can, hay khi họ gặp phải điều gì đó rủi ro, bực bội nho nhỏ. Tuy nhiên, chỉ
trong những năm bị quản chế tại gia, tôi mới nghiền ngẫm được rõ ràng bản chất
của sáu điều gây đau khổ lớn. Ðó là: sinh, lão, bệnh, tử, chia lìa với người
thương, và bị bắt buộc phải sống giữa những người xa lạ không có tình yêu
thương. Tôi suy ngẫm về từng thứ gây đau khổ ấy, không phải trong bối cảnh tôn
giáo mà trong đời sống bình thường hàng ngày của chúng ta. Nếu như đau khổ là một
phần không thể tránh trong sự tồn tại của chúng ta, chúng ta nên cố gắng làm giảm
nhẹ nó hết sức có thể theo những cách thực
tiễn nhất. Tôi đã suy đi nghĩ lại về hiệu quả của những chương trình chăm sóc
bà mẹ và trẻ em trước và sau khi sinh, về những điều kiện tương xứng cho số dân
lớn tuổi; về chăm sóc sức khỏe toàn diện; về chăm sóc y tế và nhà tế bần cho
người nghèo. Tôi đặc biệt chú ý đến hai loại đau khổ sau cùng: bị chia tách khỏi
những người thân thương và bị buộc phải sống giữa những người xa lạ không có
tình yêu thương. Những trải nghiệm nào mà Ðức Phật của chúng ta có lẽ đã trải
qua trong đời ngài khiến ngài đã bao gồm hai điều này trong sáu điều đau khổ?
Tôi nghĩ về những người bị cầm tù và những người di cư, hay những công nhân xa
xứ và nạn nhân của sự buôn người, nghĩ về những đám đông như những cái cây bị
nhổ bật rễ, những người đã phải xa lìa xứ sở quê hương, bị chia cắt với gia
đình và bạn bè, bị bắt buộc phải sống giữa những người xa lạ chẳng phải bao giờ
cũng chào đón họ.
Chúng ta thật
may mắn sống trong thời đại mà phúc lợi xã hội và trợ giúp nhân đạo được công
nhận không chỉ là một điều ước mà là một sự cần thiết. Tôi có may mắn sống
trong một thời đại mà số phận của những tù nhân lương tâm ở một nơi nào đó trở
thành mối quan tâm của mọi người ở mọi nơi, một thời đại mà dân chủ và quyền
con người là điều được công nhận một cách rộng rãi, cho dù không phải phổ quát
trên toàn thế giới, là những quyền tự nhiên bẩm sinh của tất cả mọi người. Ðã
bao lần trong những năm bị quản chế tại gia, tôi đã lấy thêm sức mạnh cho mình
từ đoạn văn tôi rất ưa thích trong lời nói đầu bản Tuyên ngôn Phổ quát về Nhân
quyền:
…. Hành vi xem thường
và chà đạp nhân quyền đã dẫn đến những hành động dã man làm xúc phạm lương tâm
nhân loại. Việc tiến đến một thế giới trong đó con người được hưởng tự do ngôn
luận, tự do tín ngưỡng, không còn sợ hãi và nghèo khó, phải được tuyên bố như
là khát vọng cao nhất của con người bình thường.
…điều cốt lõi là, để
con người không bị bắt buộc phải sử dụng đến biện pháp cuối cùng là vùng dậy chống
lại độc tài và áp bức, nhân quyền cần phải
được bảo vệ bằng những quy định của luật pháp.”
Nếu người ta
hỏi tôi vì sao tôi tranh đấu cho quyền con người ở Miến Ðiện, những đoạn văn
trên đây sẽ đem lại câu trả lời. Nếu người ta hỏi tôi vì sao tôi tranh đấu cho
nền dân chủ ở Miến Ðiện, thì đó là vì tôi tin rằng thiết chế dân chủ và sự thực
hiện nó là cần thiết để bảo đảm cho quyền con người.
Trong năm
qua đã có dấu hiệu về những nỗ lực của những người tin vào nền dân chủ và quyền
con người đang bắt đầu kết trái ở Miến Ðiện. Ðã có những thay đổi theo hướng
tích cực, đã có những bước đi hướng về dân chủ hóa. Nếu tôi tán thành chủ nghĩa
lạc quan thận trọng thì đó không phải là vì tôi không có niềm tin vào tương lai
mà là vì tôi không muốn khuyến khích niềm tin mù quáng. Nếu không có niềm tin
vào tương lai, không có sự thuyết phục rằng những giá trị dân chủ và quyền cơ bản
của con người không chỉ là điều cần thiết mà còn là khả dĩ cho xã hội của chúng
ta, thì phong trào của chúng tôi đã
không thể đứng vững trong những năm tháng hủy diệt này. Một số chiến binh đã
ngã xuống tại vị trí chiến đấu của họ, số khác rời bỏ chúng tôi, nhưng nhóm
nòng cốt tận tâm thì vẫn mạnh mẽ và gắn bó. Có lúc nghĩ về những năm tháng đã
qua, tôi ngạc nhiên là đã có rất nhiều người vững vàng trong những hoàn cảnh
nhiều thử thách nhất. Niềm tin của họ vào sự nghiệp của chúng tôi không hề mù
quáng; nó dựa trên một sự đánh giá sáng suốt về sức mạnh của chính họ, về sự
can trường và một sự tôn trọng sâu sắc trước những khát vọng của dân tộc chúng
tôi.
Nhờ những
thay đổi gần đây trong đất nước tôi mà tôi có mặt ở đây với các bạn hôm nay; và
những thay đổi này đã đến bởi vì các bạn
và những người yêu tự do và công lý khác đã đóng góp vào sự nhận thức trên toàn
cầu về hoàn cảnh của chúng tôi. Trước khi tiếp tục nói về đất nước tôi, tôi xin
được nói về những tù nhân lương tâm của chúng tôi. Vẫn đang còn có những người
tù như thế ở Miến Ðiện. Thật đáng lo ngại khi những người bị giam giữ nổi tiếng
nhất đã được phóng thích, những người vô danh khác sẽ bị lãng quên. Tôi đứng ở
nơi đây là vì tôi đã từng là một tù nhân lương tâm. Khi các bạn nhìn vào tôi và
lắng nghe tôi nói, xin hãy nhớ một sự thật thường được lặp đi lặp lại rằng một
người tù nhân lương tâm đã là quá nhiều. Những người chưa được trả tự do, những
người chưa được tiếp cận với lợi ích của công lý trong nước tôi, con số đó lớn
hơn con số một nhiều lắm. Xin hãy nhớ đến họ và xin hãy làm bất cứ cái gì có thể
để tác động đến việc trả tự do cho họ sớm nhất và vô điều kiện.
Miến Ðiện là
đất nước nhiều sắc dân và niềm tin vào tương lai của Miến Ðiện chỉ có thể xây dựng
trên nền tảng của tinh thần hợp nhất. Từ khi giành được độc lập năm 1948, chưa
bao giờ có lúc nào chúng tôi có thể tuyên bố là cả nước đã có hòa bình. Chúng
tôi đã chưa thể xây dựng lòng tin và sự hiểu biết cần thiết để xóa bỏ những
nguyên nhân gây xung đột. Niềm hy vọng đã trỗi dậy qua cuộc ngưng bắn được duy
trì từ đầu thập kỷ 90 cho đến năm 2010 thì bị phá vỡ qua một tiến trình vài ba
tháng. Một hành động thiếu cân nhắc đã đủ để phá tan cuộc ngừng chiến đã kéo
dài khá lâu. Trong những tháng gần đây, những cuộc thương lượng giữa chính phủ
và các lực lượng người dân tộc đã và đang có tiến bộ. Chúng tôi hy vọng rằng thỏa
thuận ngừng bắn sẽ dẫn đến những giải pháp chính trị được xây dựng trên nền tảng
khát vọng của các dân tộc và tinh thần hợp
nhất.
Ðảng Liên hiệp
Quốc gia vì Dân chủ của tôi và tôi đã sẵn sàng và mong muốn giữ bất cứ vai trò
nào trong tiến trình hòa giải quốc gia. Những biện pháp đã được khởi động bởi
chính phủ của tổng thống U Thein chỉ có thể duy trì được với sự hợp tác sáng suốt
của tất cả mọi lực lượng nội bộ: quân đội, các nhóm dân tộc quốc gia, các đảng
phái chính trị, truyền thông, các tổ chức xã hội dân sự, cộng đồng doanh nghiệp,
và quan trọng hơn hết là công chúng. Chúng tôi có thể nói rằng cuộc cải cách
này là có hiệu quả chỉ khi cuộc sống của nhân dân chúng tôi được cải thiện và về
mặt ấy, cộng đồng quốc tế có một vai trò không thể thiếu. Viện trợ nhân đạo và
viện trợ phát triển, các thỏa thuận song phương và đầu tư phải được phối hợp và
có cân nhắc đến việc bảo đảm tăng trưởng quân bình và bền vững về xã hội, chính
trị và kinh tế. Tiềm năng của đất nước chúng tôi là hết sức to lớn. Ðiều này cần
được nuôi dưỡng và phát triển để tạo ra một xã hội không chỉ thịnh vượng hơn mà
còn hài hòa hơn, dân chủ hơn, nơi người dân của chúng tôi có thể sống trong hòa
bình, an toàn và tự do.
Hòa bình của
thế giới chúng ta là điều không thể chia cắt. Chừng nào mà những lực lượng tiêu
cực còn mạnh hơn những lực lượng tích cực ở bất cứ nơi đâu, thì tất cả chúng ta
đều bị đe dọa. Có lẽ ta có thể đặt câu hỏi rằng liệu có bao giờ tất cả những lực
lượng tiêu cực sẽ bị loại bỏ? Câu trả lời đơn giản là: “Không!”. Bản chất của
con người chứa đựng cả cái tích cực lẫn cái tiêu cực. Tuy nhiên con người cũng
có khả năng tạo nên và làm mạnh thêm những cái tích cực và làm giảm đến mức thấp
nhất hay trung hòa hóa những cái tiêu cực. Hòa bình tuyệt đối trong thế giới
chúng ta là một mục tiêu không thể đạt được. Nhưng đó là thứ mà chúng ta phải
hướng về trong cuộc hành trình mà chúng ta đang tiếp tục; đôi mắt chúng ta dán
chặt vào mục tiêu đó như người đi trong sa mạc dán mắt vào ngôi sao dẫn đường sẽ
đưa anh ta đến nơi giải thoát. Ngay cả nếu chúng ta không đạt được hòa bình
hoàn hảo trên trái đất, bởi vì hòa bình hoàn hảo là thứ không có trên trái đất
này, thì những nỗ lực chung để giành lấy
hòa bình cũng sẽ đoàn kết mọi cá nhân và mọi quốc gia trong lòng tin và tình hữu
nghị; và giúp tạo ra một cộng đồng người an toàn hơn và tử tế hơn.
Tôi dùng từ
“tử tế hơn” với sự cân nhắc thận trọng. Tôi có thể nói đó là sự cân nhắc thận
trọng của nhiều năm. Trong những sự ngọt ngào của nghịch cảnh, và hãy cho tôi
nói rằng những thứ ngọt ngào ấy chẳng có nhiều cho lắm, tôi đã tìm thấy cái điều
ngọt ngào nhất, thứ quý giá hơn hết tất cả, là bài học mà tôi đã học được về
giá trị của lòng tốt. Tất cả những sự tử tế mà tôi đã nhận được, dù nhỏ hay lớn,
đều đã thuyết phục tôi rằng lòng tốt có thể không bao giờ đủ trong thế giới của
chúng ta. Tử tế là đáp ứng với sự nhạy cảm và ấm áp của con người trước hy vọng
và nhu cầu của người khác. Ngay cả cái chạm nhẹ nhất của lòng tốt cũng có thể
thắp sáng một trái tim nặng trĩu. Lòng tốt có thể làm thay đổi cuộc đời của con
người. Na-Uy đã cho thấy gương mẫu của sự tử tế trong việc cung cấp tổ ấm cho
những người tha phương trên trái đất, bảo vệ những người đang bị tấn công, bị cắt
đứt chiếc dây neo của an toàn và tự do với quê hương bản quán của họ.
Ở mọi nơi
trên thế giới này đều có những người tị nạn. Khi tôi đến trại tị nạn Maela ở
Thái Lan gần đây, tôi đã gặp những người tận tụy đang hàng ngày đấu tranh cho
cuộc sống của những người tị nạn thoát khỏi khó khăn chừng nào hay chừng ấy. Họ
nói về mối quan ngại của họ đối với “sự mòn mỏi dần những người tài trợ”, là điều
có thể dịch ra thành “sự mòn mỏi lòng trắc ẩn”. Cụm từ “sự mòn mỏi dần những
người tài trợ” tự nó đã diễn đạt một cách chính xác sự giảm sút nguồn tiền tài
trợ. “Sự mòn mỏi lòng trắc ẩn” tự diễn đạt nó ít hiển nhiên hơn việc giảm sút đi
lòng trắc ẩn. Cái này là hậu quả của cái kia. Liệu chúng ta có thể sống mãi được
với việc tự cho phép mình mòn mỏi đi lòng trắc ẩn? Phải chăng cái giá của việc
đáp ứng nhu cầu cho những người tị nạn lớn hơn cái giá của sự quay lưng, nếu
không muốn nói là nhắm mắt lại trước sự đau khổ của họ? Tôi khẩn khoản kêu gọi
những nhà tài trợ trên thế giới trong việc đáp ứng nhu cầu của những con người
này, những người đang tìm kiếm, thường là cuộc tìm kiếm vô vọng, sự tị nạn trên
một đất nước khác.
Ở Maela, tôi
đã có những cuộc thảo luận quý giá với các viên chức Thái chịu trách nhiệm quản
lý điều hành tỉnh Tak, nơi có trại này và nhiều trại khác. Họ cho tôi biết nhiều
vấn đề nghiêm trọng hơn liên quan đến các trại tị nạn: vi phạm luật bảo vệ rừng,
sử dụng ma túy bất hợp pháp, cất rượu lậu, các vấn đề về kiểm soát bệnh sốt
rét, bệnh lao phổi, sốt xuất huyết và bệnh dịch tả. Những quan ngại của cơ quan
hành chánh là chính đáng cũng như những quan ngại của những người tị nạn. Các
quốc gia chủ nhà cũng cần có sự xem xét và sự giúp đỡ cụ thể để đương đầu những
khó khăn liên quan đến phần trách nhiệm của họ.
Mục tiêu tối
hậu của chúng ta phải là tạo ra một thế giới thoát khỏi tình trạng có những người
phải di tản, những người không nhà và tuyệt vọng, một thế giới mà từng góc nhỏ
và tất cả mọi nơi đều là nơi trú ẩn thực sự mà những người sống ở đó đều có tự
do và có năng lực sống trong hòa bình. Mọi ý nghĩ, mọi lời nói, mọi việc làm
góp phần vào cái tốt và cái lành mạnh sẽ là một sự đóng góp cho hòa bình. Mỗi
người và tất cả chúng ta đều có thể đóng góp như thế. Chúng ta hãy nắm tay nhau
tạo ra một thế giới hòa bình, nơi chúng ta có thể ngủ trong an toàn và thức dậy
trong niềm hạnh phúc.
Xin cảm ơn quý vị.
DienDanCTM
nhuồn: http://www.gocnhinalan.com/bai-cua-khach/din-nobel-ha-bnh-aung-san-suu-kyi.html
0 comments:
Đăng nhận xét