Tự do báo chí là một quyền cơ bản của con người. Tự do báo
chí được ghi trong Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền và trong Hiến pháp của hầu
hết các quốc gia trên thế giới kể cả Việt Nam. Theo đó phóng viên nhà báo có quyền
tự do thu thập, trao đổi, truyền bá tin tức và ý tưởng. Họ được quyền tự do
quyết định cả nội dung lẫn hình thức bài báo. Họ chịu trách nhiệm trước pháp
luật và phải được pháp luật bảo vệ.
Việt Nam
là một nước độc tài cộng sản mọi quyền tự do của người viết báo đều bị tước bỏ,
đảng Cộng sản chỉ dùng báo chí như một công cụ định hướng dư luận. Từ đó Việt Nam bị coi là
một trong những quốc gia tồi tệ nhất về tự do báo chí. Theo Tổ chức Phóng
viên không biên giới Việt Nam
nằm thứ 172 trong tổng số 179 nước về chỉ số tự do báo chí.
Để che lấp, đảng Cộng sản bày ra Ngày Nhà Báo 21 tháng 6. Trong ngày này giới chức cầm quyền thăm các tờ báo, nhắc nhở nhà báo phải thực hiện tốt công tác tuyên truyền được đảng giao.
Nhân dịp
21-6 năm nay, khi Nguyễn Phú Trọng thăm tòa sọan báo Nhân Dân, ông nhận xét tờ
báo “khô khan” và cần phải “Tuyên truyền về chính trị một cách có nghệ thuật
bằng những cảm xúc thật sự để nội dung đó đi vào lòng người một cách tự nhiên...”
Nguyễn Phú Trong thật ra chỉ xác nhận một điều mà mọi người đều đã biết: nhân
dân không đọc báo Nhân dân.
Cũng nhân
ngày 21-6, nhà báo Đoan Trang có bài “Làm báo thời thổ tả” để chia sẻ tâm sự
nhà báo trong thời cộng sản cuối trào mà cô ví như thời của bọn thổ tả. Cô cho
biết“… sự thật là tối thượng, và nếu có thể gọi đấy là “động cơ”, thì nhà
báo chỉ có động cơ duy nhất là phản ánh sự thật.” Đề cập đến các vụ cưỡng
chế đất đai Tiên Lãng và Văn Giang, cô nhận xét: “…Một cuộc vật lộn để được
biết sự thật, để được viết sự thật, và để được khách quan (tất nhiên cũng chỉ
dám mong ở mức độ tương đối). Thế mà, cho đến giờ,cái đích ấy vẫn chưa đạt được.”
Cũng nhân
ngày 21-6, Nguyên Bộ Trưởng Thông tin Lê Doãn Hợp tuyên bố: “Một tờ báo từng
hỏi tôi liệu có vùng cấm đối với báo chí không. Tôi xin khẳng định ngay là
không có vùng cấm nào, chỉ có báo chí ngại không vào mà thành vùng cấm Báo chí,
… Hãy nhớ rằng tiêu cực luôn sợ báo chí. Một thiết chế chính trị mà báo chí
đủ uy trước tiêu cực là thiết chế chính trị tuyệt vời. Mà để làm được điều
đó, báo chí chỉ có cách làm tốt công tác phản biện.”
Nói tới
đây ông Lê Doãn Hợp tiết lộ một điều là khi còn làm Bộ Trưởng ông đã phải cố
gắng lắm mới thuyết phục mang hai chữ "phản biện" vào Nghị quyết 11.
Đêm đó ông cứ lâng lâng sảng khóai vì đóng góp vĩ đại này. Ông tiếp tục nhận
xét: “Nhưng còn buồn vì mặt yếu nhất hiện nay của báo chí chính là phản
biện. Báo chí gần như chưa làm được gì nhiều với chức năng phản biện của
mình.”
Cách nhìn
của ông Dõan khá lệch lạc vì thực tế vẫn là: “Báo chí gần như chưa được
làm gì nhiều với chức năng phản biện của mình.” Ở thời của bọn thổ tả
vài ba chữ trong Nghị quyết Chính trị mà ông Dõan đưa vào chẳng có giá trị gì.
Đồng tiền và bạo lực quyết định mọi vấn đề.
Khi còn
làm Bộ Trưởng ông Hợp từng tuyên bố: “…Chúng ta hoàn toàn có tự do nếu đi
đúng lề đường bên phải, và chúng tôi cố gắng làm cho các đồng chí lề đườngđó…”
Ngặt nỗi trong thời của bọn thổ tả, đảng Cộng sản chỉ loanh quanh không biết
lối đi, thì làm sao báo chí biết được bên nào phải bên nào trái. Đồng tiền và
bạo lực của bọn thổ tả chính là cái lề mà báo chí phải theo.
Trong lần
cưỡng chế Tiên Lãng, báo chí được bật đèn xanh nên có đôi chút “tự do” viết
lách. Lần đó Nguyễn Tấn Dũng còn xuống cả địa phương để được giới chức cầm
quyền báo cáo. Nhưng đâu rồi cũng lại vào đó, gia đình dân oan Đòan Văn Vươn
vẫn ở tù còn giới chức vi phạm pháp luật thì vẫn là kẻ coi tù.
Đến lần
cưỡng chế Văn Giang, khu vực cưỡng chế trở thành vùng cấm báo chí. Nhà cầm
quyền tổ chức họp báo yêu cầu các phóng viên phải đưa tin theo tài liệu của họ
đưa ra và không được đến hiện trường. Vì vi phạm lệnh cấm, phóng viên Đài Tiếng
Nói Việt Nam Nguyễn Ngọc Năm và Hán Phi Long, đã bị hành hung, bị bắt giữ, bị
giải về Viện Kiểm sát. Phóng viên Long phải vào bệnh viện điều trị các thương
tích. Nhiều bằng chứng cho thấy chính Nguyễn Tấn Dũng đứng đằng sau vụ cưỡng
chế này, vụ án an ninh hành hung phóng viên đã nhanh chóng đi vào quên lãng.
Làm báo ở
Việt Nam
là một nghề vô cùng nguy hiểm. Nếu không theo đúng chỉ đạo là dễ dàng bị khiển
trách, bị cảnh cáo, bị trừng phạt nặng nề. Nhiều nhà báo bị thu thẻ hành nghề,
bị khởi tố, hay bị bỏ tù. Ở cái thời của bọn thổ tả, nhà báo còn bị cái gọi là
“chính quyền” công khai hành hung khi lọt vào vùng cấm quyền lực. Báo chí được
định hướng theo quyền lực và đồng tiền. Đáng quý thay Việt Nam vẫn còn
những nhà báo yêu nghề, yêu sự thực như nhà báo Đoan Trang. Một nụ hồng của làng
báo Việt Nam.
Làm báo là
phục vụ nhu cầu thông tin. Mỗi người đọc đều có nhu cầu thông tin khác nhau, từ
đó mỗi người thường chọn lựa nguồn thông tin cả về nội dung, hình thức và
phương pháp chuyển tải thích hợp nhất cho mình. Khi được tự do cạnh tranh mỗi
tờ báo, mỗi nhà báo sẽ tìm mọi cách để nâng cao cả về nội dung, lẫn hình thức,
cũng như nhanh chóng đưa những tin nóng nhất tới bạn đọc. Báo chí tự do từ đó
trở nên đa dạng hơn, phong phú hơn, đáng tin cậy hơn trong việc phục vụ quảng
đại quần chúng.
Trong thời
bao cấp, nhà báo chẳng khác gì các công chức nhà nước, viết cho đảng và lãnh
lương từ nhà nước. Ngày nay chỉ còn vài tờ báo như tờ Nhân Dân, tờ Quân Đội Nhân
Dân là còn được bao cấp tòan phần. Các tờ báo thuộc đòan thể chỉ được trợ cấp
một phần, phần khác họ phải cạnh tranh qua việc bán báo và lấy quảng cáo. Để
sống còn họ phải giảm nhẹ phục vụ các định hướng chính trị và thu hút bạn đọc
bằng các thông tin “phi chính trị”.
Trong cuộc
đối thoại trực tuyến ngày 12-6-2012, ông Nguyễn Bắc Sơn, Bộ trưởng Bộ Thông tin
cho biết Việt Nam
chưa có kế hoạch tư nhân hóa báo chí. Ông cũng cho rằng nhiều trang blog đang
lợi dụng “dân chủ”, lợi dụng khe hở nhưng nhà nước chưa có điều kiện chế tài.
Nhân Ngày
21-6, Bộ trưởng Công an Trần Đại Quang yêu cầu tất cả các báo chí của
ngành công an khôngđược thương mại hóa, xa rời mục tiêu chính trị và
bỏ quên việc định hướng dư luận xã hội. Bộ trưởng Quốc phòng Phùng
Quang Thanh thì yêu cầu báo Quân đội nhân dân phải tăng cường giữ vững
định hướng chính trị để xứngđáng là công cụ đắc lực của Đảng trên mặt trận đấu
tranh tư tưởng. Còn Trưởng Ban Tuyên giáo trung ương, Đinh Thế Huynh nhắc
nhở các cơ quan báo chí phải tích cực định hướng dư luận để tăng
cường niềm tin vào đảng, nhà nước và con đường phát triển đất nước.
Việc ba
thành viên Bộ Chính Trị nhắc nhở báo chí phải giữ vững định hướng chính trị cho
thấy khả năng kiểm sóat báo chí và dư luận xã hội của đảng Cộng sản đang mất
dần hiệu quả. Mất khả năng kiểm sóat dư luận là dấu hiệu tan rã niềm tin, dẫn đến
bất ổn chính trị và cáo chung của chế độ cộng sản.
Ngược lại
dư luận xã hội càng ngày càng chịu ảnh hưởng cộng đồng mạng. Cộng đồng này gồm
những người âm thầm xây dựng và điều hành các diễn đàn, những bloggers, những
người viết bài, đưa tin, chuyển tin. Có người làm báo đã qua đào tạo cũng có
người tự học qua kinh nghiệm thực hành. Họ tự đặt mình vào một cộng đồng thiện
nguyện. Họ chăm chỉ làm việc ngàyđêm, họ có chung một ước mơ sớm mang lại tự do
cho Việt Nam.
Thông tin mạng nhanh chóng, trung thực, khách quan, toàn diện và tự do, nên
càng ngày càng nhiều người tích cực tham gia và ảnh hưởng sâu rộng trong quần
chúng Việt Nam.
Kết quả nỗ
lực của cộng đồng mạng đã được chính báo Quân Đội Nhân Dân công nhận. Trích
đọan dưới đây từ bài “Chuẩn bị khả năng đề kháng của quân nhân” trên báo QĐND
ngày 5-2-2012: “…chỉ cần một quân nhân vô tình đọc được những thông tin
“ngoài luồng” rồi “rỉ tai” đồng đội thì liền sau đó sẽ có nhiều quân nhân khác
đọc theo. Và lập tức những thông tin này âm ỉ lan truyền như những tế bào độc cư
trú ngay trong tư tưởng mỗi quân nhân rồi phát triển, “di căn”...Như vậy, đủ
thấy tác hại khó lường của “tự diễn biến”, nó tạo ra hiệu ứng tiêu cực về mặt
tư tưởng, tâm lý, tiềm ẩn ngay trong suy nghĩ, hành động, việc làm chủ quan,
mất cảnh giác hằng ngày của mỗi quân nhân.”
Ngày 27-5-2012,
QĐND lại có bài công nhận:“Tại Việt Nam hiện nay, hầu hết các dịch vụ
như tìm kiếm, email, chat, mạng xã hội đều được cung cấp bởi các doanh nghiệp
nước ngoài. Các doanh nghiệp này cung cấp sản phẩm tại Việt Nam nhưng không hề phải tuân thủ luật pháp Việt Nam. Nhiều
doanh nghiệp nước ngoài có tới hàng chục triệu khách hàng trong nước, nhưng bỏ
qua các quy định của Việt Nam.” Thực tế các doanh nghiệp quốc tế đều phải
tôn trọng các quy luật quốc tế, tránh việc vi phạm các quyền tự do đã được ghi
rõ trong bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, và như thế đảng Cộng sản hòan tòan
mất khả năng kiểm sóat không gian mạng.
Không kiểm sóat được không gian mạng, nhà cầm quyền Hà Nội
xoay ra đàn áp những nhà báo tự do, những bloggers. Họ dùng Điều 79 “tội hoạt
động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” và Điều 88 “tội tuyên truyền chống Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” để khép và bắt tù những nhà báo tựdo. Họ
càng bắt bớ thế giới càng nhìn ra sự thật về tình trạng báo chí Việt Nam trong thời
của bọn thổ tả.
Để chống lại sự phát triển của truyền thông mạng, đảng cộng
sản còn sử dụng các biện pháp như tịch thu máy điện toán, đe dọa các boggers và
gia đình, xây dựng tường lửa, xâm nhập phá hoại các mạng tự do. Họ càng đàn áp
càng phá họai thì cộng đồng mạng lại càng nhận ra kết quả việc làm, càng nỗ lực
hơn, càng có nhiều người tham gia hơn.
Cuộc chiến giữa cộng đồng mạng và đảng Cộng sản mỗi ngày
một trở nên khốc liệt hơn. Cả hai đều nhận rõ nắm được dư luận chính trị xã hội
là nắm được phần thắng. Cộng đồng mạng đề cao tự do, sự thật và nắm được chính nghĩa
nên đường đấu tranh mỗi ngày một rộng mở. Đảng cộng sản ngược lại sợtự do, sợ
sự thật nên càng ngày càng suy thóai và đang từng bước tan rã.
Quan sát vụ cưỡng chế Tiên Lãng cho thấy các nhà báo có thẻ
hành nghề và nhà báo tự do trao đổi và bổ xung tin tức cho nhau, nhờ đó sự thật
về vụ cưỡng chế mỗi ngày một rõ hơn, thông tin được lan rộng đến mọi tầng lớp
quần chúng, nhất là đến những người nông dân thấp cổ bé miệng đang mất dần
nguồn sống vào tay cường quyền cộng sản. Trên thực tế nhiều nhà báo tự do trước
đây đã từng làm việc cho các báo, nhiều bloggers hiện đang làm việc cho các
báo, đóng góp của họ làm truyền thông tự do trở nên hấp dẫn và vô cùng phong
phú. Đây là một ưu điểm trong công cuộc đấu tranh cho một nền tự do báo chí tại
Việt Nam.
Để kết thúc, người viết xin chia sẻ cùng bạn đọc một tổng
hợp các thông tin trong làng báo để hiểu rõ hơn động cơ yêu nước của Tập Đòan
Nguyễn Tấn Dũng.
Ngay khi Truyền Hình Việt Nam cho phát hình tàu Trung cộng
cắt cáp tàu Bình Minh, người viết đã phân tích và nhận định chính Nguyễn Tấn
Dũng và bè cánh đã đơn phương ra lệnh thông tin việc cắt cáp. Việc thông tin
này tạo một số bất bình và phân hóa trong nội bộ đảng Cộng sản Việt Nam.
Đến tháng 11-2011, trước Quốc hội Cộng sản Nguyễn Tấn Dũng
chính thức Tuyên bố hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt
Nam. Tuyên Bố này xem ra đã được Bộ Chính Trị thông qua với đa số đồng thuận.
Đúng Ngày Nhà Báo 21-6 năm nay Quốc Hội đã chính thức thông
qua Luật Biển. Điều 1 chính thức xác nhận hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
thuộc chủ quyền Việt Nam.
Tin này được tờVietNamnet đưa lên mạng nhưng rồi không cho biết lý do lại bị gỡ
xuống. Các báo khác chỉ một dòng thông tin Quốc Hội đã thông qua Luật Biển.
Không biết về luật Biển đảng Cộng sản đang muốn định hướng dư luận thế nào !!!
Theo tin không chính thức Bộ luật đã được thông qua với đa
số tuyệt đối trên 99 phần trăm. Một thắng thế lớn cho Tập Đòan Nguyễn Tấn Dũng.
Nhưng con đường theo Mỹ chống Tầu khó có thể quay ngược.
Trong tình trạng kinh tế khó khăn, thiếu ngọai tệ để nuôi cả
guồng máy cai trị: đảng, nhà nước,đòan thể, báo chí và nhất là các Tập Đòan
Doanh Nghiệp, Nguyễn Tấn Dũng cần tiền. Trong khi ấy nguồn tài nguyên dồi dào
tại biển Đông lại bị đồng chí đàn anh Trung cộng phong tỏa. Về mặt nổi khá rõ
lý do Nguyễn Tấn Dũng phải đánh ván bài tẩy theo Mỹ chống Tầu.
Tin tức từ bên trong nội bộ đảng Cộng sản đưa ra cho biết đánh
cắp tài nguyên quốc gia chính lực động cơ đã thúc đẩy Nguyễn Tấn Dũng theo
Mỹ chống Tầu. Một mạng thông tin vừa xuất hiện cách đây vài tuần lấy tên là
Quan Làm Báo (quanlambao). Mạng thông tin này đưa ra nhiều tin tức đáng quan
tâm. Trong bài viết “Vikileak 2: PetroVietnam và bí mật của tướng Hưởng” có đọan
như sau:
“… PetroVietnam từ trước đến nay dù
qua nhiều đời Thủ Tướng, nhưng luôn là đơn vị trực thuộc Thủ Tướng có thể do
tầm quan trọng của nó, cũng có thể vì quyền lợi khủng khiếp do nó mang lai, có
lẽvì vậy mà Petrovietnam còn được đặt tên là ‘sân sau của Thủ Tướng’.
Bắt đầu từ thời Thủ Tướng Phan Văn Khải, khi Tướng Nguyễn
Văn Hưởng chỉ mới giữ vị trị Tổng cục trưởng Tổng cục an ninh kinh tế, với sự
môi giới và mách nước của bố già Nguyễn Đức Kiên, Hưởng và quý tử của Phan Văn
Khải đã thiết lập một đường dây để ăn cắp tài nguyên dầu lửa của đất nước.
Hưởng đã trực tiếp xuống thăm dàn khoan ngoài biển, chứng kiến các tàu nước
ngoài vào nhận dầu thô tại các dàn khoan ngoài khơi rồi xuất khẩu trực tiếp ra
nước ngoài.
Dự án này được bắtđầu bởi Kiên - Hưởng – Hoan ty và Cựu
Tổng giám đốc của Petrovietnam Trần Ngọc Cảnh cùng công ty khai thác và mua dầu
thô của Petrovietnam.
Thủ đoạn đã thực hiện: cứ 10 tàu được bơm đầy dầu thô
thì chỉ đưa vào sổ sách 70%, còn lại 30% để bên ngoài chia nhau với cả phía
nước ngoài. Để phục vụ cho việc ăn trộm cắp tài nguyên của đất nước suốt
hàng chục năm qua, Hưởng đã tổ chức đưa cả đệ tử ruột của mình ở Tổng cục an
ninh để ra làm nhiệm vụ bảo vệ và ‘giám sát’, thực chất là để bảo vệ cho việc ăn
cắp công khai nhưng lại che mắt được nhân viên của Petrovietnam làm việc tại
dàn khoan khi nhìn thấy an ninh của Hưởng nên yên tâm mà không ai còn để ý gì.
Mỗi năm PetroVietnam khai thác từ 18 triệu tấn và đến hiện nay lên tới 23 triệu
tấn thì mỗi năm đã có 5 triệu tấn đến 7 triệu tấn dầu thô thất thoát bên ngoài
và được ăn chia cho đường dây Mafia của Kiên - Hưởng - Trần Ngọc Cảnh – Phan Văn
Khải và sau này đường dây được tiếp tục với Bố già Kiên –Hưởng – Đinh La Thăng và
Nguyễn Tấn Dũng với phương thức đã thực hiện từ nhiều năm trước…”
Thông tin của Quanlambao xem ra có lý và có mức độ đáng tin
cậy. Như thế hằng năm phe cánh của Nguyễn Tấn Dũng đã thu vào vài tỉ Mỹ kim từ
việc ăn cắp tài nguyên quốc gia. Một nguồn lợi quá lớn để Tướng Nguyễn văn Hưởng
phải công khai mời Hoa Kỳ trở lại Việt Nam (nguồn wikileaks) và Nguyễn Tấn
Dũng phải đánh ván cờ “Theo Mỹ Cứu Đảng”.
Ván cờ Nguyễn Tấn Dũng đánh ra đang được bên trong và bên
trên đảng Cộng sản nhiệt tình ủng hộ. Quốc Hội Cộng sản đã ủng hộ Tấn Dũng với
đa số tuyệt đối. Nhưng động cơ của Tấn Dũng là để mở rộng khả năng ăn cắp tài
nguyên dầu khí quốc gia. Việc làm của Tấn Dũng có thể dẫn đến chiến tranh gây
tang thương đổ vỡ cho người lính và người dân Việt Nam.
Nhận ra động cơ thúc đẩy Tấn Dũng chống Tầu để tránh bị Tập
đòan Tấn Dũng lợi dụng lòng yêu nước cho lợi quyền cá nhân và phe nhóm. Chế độ
Nguyễn Tấn Dũng, Chế độ cộng sản phải được triệt để thay thế bằng một thể chế
tự do không phải chỉ tam quyền phân lập mà đệ tứ quyền (quyền tự do báo chí) và
đệ ngũ quyền (quyền tự do internet) phải được triệt để tôn trọng và phải được
pháp luật bảo vệ.
Nguyễn Quang Duy
Melbourne, Úc Đại Lợi
28-6-2012
0 comments:
Đăng nhận xét