Chúng ta thường nghe nói pháp quyền là quyền thượng tôn pháp luật – Pháp luật đứng trên hết mọi đối tượng – và áp dụng cho mọi người như nhau. Cách hiểu này còn được gọi là pháp trị (rule by law) tức cai trị bằng pháp luật. Tuy nhiên điều gì sẽ xảy ra khi Pháp luật lại bảo vệ một đối tượng nào đó trên hết, chẳng hạn một tư tưởng chủ nghĩa, một chế độ chính trị, một đảng phái trị nào đó, hay thậm chí là một con người nào đó?
Câu trả lời đã quá rõ ràng: điều đó sẽ dẫn đến sự chuyên chế (hay chuyên chính theo cách nói của những người Cộng sản) mà ở đó Pháp luật được sử dụng làm công cụ cai trị của giới cầm quyền để duy trì quyền lực và quyền lợi cho mình. Đây chính là tính chất chính trị căn bản và đã trở thành bản chất của các chế độ phong kiến hay còn gọi là quân chủ chuyên chế mà đối tượng bảo vệ trên hết của nó là vua. Xâm phạm vua là tội đại nghịch, là tội đứng đầu trong luật hình sự và có mức hình phạt khủng khiếp nhất. Tương tự như vậy, ở các chế độ đảng trị thì bảo vệ đảng cũng là trên hết.
Các chế độ độc tài chuyên chế đang tồn tại ngày nay cũng với một bản chất như
vậy, chỉ có khác về hình thức, chẳng hạn như vua bây giờ có thể là một (dù với
một danh xưng khác), có thể là nhiều ví dụ như một nhóm chóp bu của một đảng
hoặc là một chế độ chính trị gắn với một tư tưởng chủ nghĩa nào đó. Việc xâm
phạm đến các chế độ và chủ nghĩa đó luôn bị quy là tội nặng nhất đứng đầu trong
các tội hình sự. Ở Việt Nam các tội gọi là xâm phạm an ninh quốc gia
được dành hẳn một chương đầu tiên của phần tội phạm của bộ luật hình sự, hầu
hết có khung hình phạt cao nhất có án tử hình, như điều 79 – lật đổ chính
quyền nhân dân, điều 88 - tuyên truyền chống phá nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bằng cách như vậy và theo tinh thần pháp trị -
thượng tôn pháp luật, giới cầm quyền ở các chế độ như thế luôn dễ dàng đứng
trên pháp luật, dùng pháp luật để bảo vệ đặc quyền riêng cho mình trên danh
nghĩa bảo vệ an ninh quốc gia. Sự thượng tôn pháp luật kết cục là để bảo vệ tối
thượng cho một nhóm đối tượng nhỏ hẹp nào đó dưới rất nhiều các danh nghĩa của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Thực ra chế độ phong kiến chưa hoàn toàn
chấm dứt, chỉ có cái tên của nó là không còn hợp thời nữa nên phải dùng đến
những cái tên hình thức khác nhau để che đậy bản chất không thay đổi của nó.
Như vậy, sự thượng tôn pháp luật là không đủ để đảm bảo cho một chế độ dân chủ.
Đây chỉ là ý nghĩa thứ cấp của pháp quyền (rule of law). Ý nghĩa sơ cấp của
pháp quyền là sự bảo vệ các quyền của con người bằng pháp luật (hiến pháp và
luật), kết hợp với ý nghĩa thứ cấp như trên sẽ dẫn đến kết quả là quyền con
người sẽ được bảo vệ ở vị trí cao nhất của pháp luật. Và do đó Nhà nước Pháp
quyền (The rule of law) là một nhà nước mà bất chấp hình thức của nó là gì đi
nữa thì pháp luật của nó phải bảo vệ các quyền của con người trên hết mọi đối
tượng khác một cách bình đẳng cho bất kỳ công dân nào của nó mà không được có
bất kỳ sự phân biệt nào về các thuộc tính sinh học, địa vị xã hội lẫn quan điểm
chính trị của họ, cho dù đó là những cái thuộc về thiểu số rất nhỏ. Nói cách khác,
nhà nước pháp quyền là một sự ủy trị để đại diện cho từng công dân một để
bảo vệ quyền con người của anh ta một cách bình đẳng với tất cả mọi công dân
khác mà không có bất kỳ đối tượng nào khác được đặt lên trên các quyền đó của
anh ta. Sự bảo vệ ở đây phải bao gồm sự đảm bảo để anh ta sử dụng được đầy đủ
các quyền con người của mình, ngăn ngừa người khác xâm phạm các quyền này của anh
ta và ngăn ngừa anh ta xâm phạm các quyền này của người khác. Cho dù anh ta có
bỏ phiếu cho nhà nước đó hay không thì nó vẫn phải bảo vệ cho anh ta như vậy,
ngay cả lúc anh ta bị phạm pháp đi nữa.
QUYỀN CON NGƯỜI TỐI THƯỢNG
Một nhà nước làm được như vậy thì tất yếu nó là một nhà nước dân chủ mà không
cần phải gắn thêm thuộc tính “của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ”
làm chi trừ khi chỉ sử dụng nó như là một khẩu hiệu. Dân chủ là một tính chất
của xã hội được hình thành nên từ sự vận động trong thực tế cuộc sống của con
người chứ không phải là một hình thức xã hội, một phương thức cai trị hoặc một
mô hình chính trị. Do vậy chúng ta hay thấy rằng có rất nhiều nước mang những
cái tên dân chủ hay nhân dân thường lại là những nước phản dân chủ nhất, áp đặt
nhân dân chuyên chế nhất. Một xã hội sẽ có tính chất dân chủ chỉ khi nào người
dân ở đó thực sự làm chủ chính mình – tức có thể sử dụng đầy đủ quyền con người
của mình mà không cần xin phép ai và cũng không ai có quyền cho phép họ. Muốn
làm được như vậy thì phải tuân thủ các nguyên tắc “Quyền con người trong nhà
nước pháp quyền” như nêu trên. Nguyên tắc này chính là một quy luật
tự nhiên khách quan mà loài người đã trải qua cả ngàn năm đúc kết thực chứng để
hiểu rõ. Và nhờ tuân theo quy luật này mà rất nhiều dân tộc đã xây dựng được
một xã hội dân chủ cho họ dưới rất nhiều các hình thức nhà nước khác nhau như Quân
chủ lập hiến, Cộng hòa đại nghị, Cộng hòa tổng thống … cho dù nguyên thủ quốc
gia là vua hay thủ tướng hay tổng thống thì vẫn phải ở dưới quyền con người
được bảo vệ trên hết và bình đẳng ở các quốc gia đó.
Do vậy việc xây dựng dân chủ bằng các mô hình đều dẫn đến sai lầm vì dân chủ là
tính chất được hình thành từ dưới lên theo quy luật khách quan nói trên chứ
không thể bằng sự áp đặt từ trên xuống theo mô hình chủ quan. Nói cách khác,
bản chất của dân chủ - tức thành tố căn cơ tạo nên dân chủ - là quyền con người
phải được bảo vệ trên hết và bình đẳng để tất cả người dân có thể tự tin sử
dụng chúng trọn vẹn. Bảo đảm được thành tố này – tức tôn trọng quy luật Quyền
con người trong Nhà nước pháp quyền – thì chắc chắn sẽ tạo ra một nền dân chủ.
Nền dân chủ đó có thể có những hình thái, mô hình khác nhau tùy thuộc vào ý
muốn của đa số nhân dân. Chẳn hạn như, vì đa số người dân Anh thích có vua/nữ
hoàng nên họ bỏ phiếu để duy trì hình thái quân chủ lập hiến để trao quyền tối cao
của họ cho người này nhằm kiểm soát các đảng phái chính trị làm theo ý chí của
họ và chống sự độc tài, và họ không cho phép người này được tham gia các hoạt
động cầm quyền, điều hành đất nước để người đó không thể lạm quyền. Khi nào họ
thấy mô hình này không phù hợp nữa thì họ sẽ bỏ phiếu thay đổi nó vì quyền của
họ luôn đứng trên hết, trên cả mô hình đó. Ý muốn của nhân dân là mệnh lệnh bắt
buộc.
QUY LUẬT ĐỂ PHÁT TRIỂN
Ý muốn đó có thể khác nhau bởi các thuộc tính sinh học, địa vị xã hội và quan
điểm chính trị của những người khác nhau. Nhưng tất cả họ đều có một cái giống
nhau và bình đẳng tuyệt đối là quyền con người của họ không hề khác nhau.
Những ai có nổ lực vượt bậc thì sẽ đề ra được những mô hình, phương thức tốt
nhất, phù hợp nhất với những hoàn cảnh, tình hình khác nhau thì sẽ thuyết phục
được đa số ủng hộ để bỏ phiếu trao quyền cho họ áp dụng mô hình, phương thức đó
cho đất nước. Do vậy những cái này liên tục thay đổi theo thời gian và bị tác
động bởi bối cảnh lịch sử trong lúc sự bảo vệ quyền con người trên hết và bình
đẳng là không được thay đổi để làm một nền tảng vững chắc – tức nền dân chủ - tạo
sự ổn định cho những sự thay đổi liên tục nói trên. Vi phạm sự bảo vệ này là
phản dân chủ, là không tuân theo quy luật khách quan nên không bao giờ có được
sự phát triển bền vững, tạo ra những điều tốt đẹp. Sự phát triển cũng phải tuân
theo quy luật phát triển tự nhiên thì mới luôn đạt được trạng thái cân bằng nên
không bị đổ vỡ.
Nguyên tắc quyền con người trong nhà nước pháp quyền cũng chính là quy luật
phát triển tự nhiên như thế. Hình vẽ dưới đây mô tả điều này :
Liên
tục
thay đổi
|
THƯỢNG TẦNG
|
Phát
triển
bền vững
|
||||||||
VĂN MINH
|
||||||||||
THỊNH VƯỢNG
|
||||||||||
CÔNG BẰNG
|
BÌNH ĐẲNG PHỔ BIẾN: Quan điểm của đa số về thuế
và các chính sách khác phục vụ cho lợi ích cộng đồng
|
|||||||||
BÌNH ĐẲNG CƠ BẢN: Ai tận dụng tốt hơn quyền con
người và 24h/ngày sẽ vượt trội hơn
|
||||||||||
BÌNH ĐẲNG TUYỆT ĐỐI: Ai cũng có giống nhau các
quyền con người mà không có sự phân biệt
|
||||||||||
Vững chắc
|
DÂN CHỦ Tuân
thủ nguyên tắc quyền con người phải được pháp
luật
bảo vệ trên hết và bình đẳng ( tôn trọng quy luật quyền con người trong
Nhà nước
pháp quyền ).
|
Bất biến
|
||||||||
TỰ TIN
Người dân sử dụng được đầy đủ quyền con người của mình mà không phải sợ
hãi .
|
||||||||||
NỀN TẢNG
|
||||||||||
Người
Trung Hoa cổ có câu ”dĩ bất biến ứng vạn biến” rất hay. Phải dựa
vào những cái không thay đổi để ứng phó với những cái liên tục thay đổi, nếu
không thì mọi sự phát triển sẽ không có nền, mất gốc và do vậy sẽ sụp đổ. Mà
đối với con người thì chỉ có quy luật của vũ trụ ( tức vũ trụ quan ) mới là bất
biến không thể bị thay đổi theo ý muốn của con người được. Còn những quy tắc
của con người (tức nhân sinh quan) thì luôn có thể thay đổi bởi chính họ hoặc
người khác. Lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng khi loài người phát hiện và
hiểu được các quy luật khách quan của vũ trụ thì xã hội của họ sẽ phát triển
vượt bậc. Điển hình là Newton
phát hiện luật Vạn vật hấp dẫn, Adam Smith phát hiện quy
luật Bàn tay vô hình (tức kinh thế thị trường ngày nay), Albert
Einsteins phát hiện thuyết Tương đối . Những phát hiện này đã
khai sáng cho nhân loại hiểu rõ những quy luật của vũ trụ đã tồn tại từ thuở
khai thiên lập địa. Từ đó thế giới đã phát triển nhanh chóng cho đến ngày nay,
tạo ra một sự thịnh vượng và văn minh vĩ đại.
Nhưng sự phát triển của thế giới vật chất như trên sẽ không thể bền vững, tốt
đẹp nếu không dựa trên những quy luật về tinh thần tự nhiên của con người. Sự
không tốt đẹp của nó – đúng hơn là tồi tệ - mà loài người đã phải chịu đựng
chính là những nạn nô lệ chà đạp con người, những cuộc chiến để giành giật của
cải và hơn thua về ý thức hệ hủy diệt con người trải cả hàng nghìn năm lịch sử,
hoặc dùng quyền lực và lợi ích vật chất để khống chế tư tưởng con người mới nổi
lên gần đây ở các chế độ đảng trị. Thế giới chúng ta sẽ không thể phát triển
tốt đẹp và hòa bình nếu căn nguyên của các thảm họa trên không được nhìn nhận
đúng để trừ khử nó.
QUY LUẬT ĐỂ CÔNG BẰNG
Các thảm họa như trên đều xuất phát từ một nguồn gốc là quyền lực tuyệt đối của
quốc gia bị rơi vào tay của một người hoặc một nhóm người cầm quyền – chính là
tình trạng chuyên chế, hay nói cách khác chính là sự bất công trầm trọng – nên
họ dễ dàng gây ra những thảm họa đó vì lòng tham cá nhân. Do vậy nếu chúng ta
làm cho thế giới công bằng thì nhân loại sẽ tránh được những thảm họa tương tự.
Có một thời, vào lúc mà chủ nghĩa Cộng sản đang thịnh hành, người ta đã tin
rằng có thể đạt được sự công bằng bằng cách áp đặt tư tưởng giống nhau tuyệt
đối cho con người và cào bằng nhu cầu vật chất của họ. Nhưng học thuyết đó đã
thất bại ê chề, đơn giản vì nó không hợp với quy luật tự nhiên của con người –
tư tưởng và nhu cầu của con người không bao giờ có thể đồng nhất như nhau được.
Và chính sự đa dạng của những cái này làm cho xã hội loài người phát triển.
Cưỡng bức để đồng nhất những cái đó đã làm cho sắc màu của cuộc sống xám xịt và
xã hội lạc hậu đến mức nào thì chúng ta cũng đều đã chứng kiến.
Nhưng nếu có một quy luật về tinh thần giúp đạt được công bằng thì phải tồn tại
một thành tố nào đó mà tính chất của nó đối với tất cả mọi người phải tuyệt đối
giống nhau bất chấp sự khác biệt về thuộc tính của họ như màu da, sắc tộc, xuất
thân, địa vị, tư tưởng, v.v… Tương tự như thành tố thời gian vậy: ai cũng có
được 24 giờ một ngày như nhau tuyệt đối bất kể họ sống ở đâu. Cho dù không quá
phức tạp nhưng phải mất mấy ngàn năm và phải sau khi đã trải qua thảm họa của
Thế chiến II thì nhân loại mới có thể thừa nhận rộng rãi rằng: Quyền con
người là tuyệt đối như nhau cho bất kì ai là con người đang sống bất kỳ đâu
trên hành tinh này. Đây chính là nguyên tắc phổ quát của Tuyên ngôn
Toàn thế giới về Quyền con người mà Liên hợp quốc đã long trọng tuyên bố vào
năm 1948. Nguyên tắc phổ quát đó cũng chính là quy luật của vũ trụ mà người ta
không thể thay đổi được. Rõ ràng là như vậy vì không ai có thể làm cho người
khác tự nhiên không muốn mình có quyền được sống, được tự do, được an toàn cá nhân
để hạnh phúc. Dùng quyền lực có thể áp đặt, tước đoạt các quyền đó của con
người nhưng không thể làm cho họ thôi khát khao có chúng.
Như vậy Quyền con người chính là thành tố có tính chất bất biến và tuyệt
đối bình đẳng đối với mọi người. Và nếu đảm bảo tôn trọng thành tố này thì
chúng ta sẽ có được sự bình đẳng tuyệt đối cho từng
người có được tất cả quyền con người hoàn toàn giống nhau như ai cũng có 24
giờ/ngày vậy. Không ai có thể cho ai hoặc lấy đi của ai các quyền và thời giờ
của họ cả. Đến khi đó ai nỗ lực tốt, biết tận dụng tốt hơn các quyền con người
và thời giờ của mình thì sẽ có quyền sở hữu nhiều thành quả hơn nên sẽ vượt
trội hơn. Đây chính là sự bình đẳng cơ bản mà nó không chỉ
tạo ra động lực lành mạnh thúc đẩy con người nỗ lực vươn lên mà còn là một cái
nền không thể thiếu để kinh tế thị trường vận hành một cách đúng đắn: muốn vươn
lên phải cạnh tranh để đáp ứng nhu cầu của người khác thay vì giành giật và chà
đạp. Và khi đó xã hội loài người sẽ phát triển nhanh chóng vì nhu cầu vật chất
lẫn tinh thần của họ liên tục được đáp ứng một cách tốt nhất. Quy luật
bàn tay vô hình sẽ tự nhiên điều tiết nhu cầu và việc đáp ứng nhu cầu
để đạt được một trạng thái cân bằng tối ưu. Tuy nhiên bàn tay vô hình
không tự điều tiết được ở một số lĩnh vực và tình huống, chẳng hạn: đơn giản
thì có bảo đảm an toàn thực phẩm phức tạp hơn là bảo vệ môi trường, hơn nữa là
thuế và các chính sách vĩ mô khác như an sinh, lợi ích cộng đồng, … cho nên
phải cần bàn tay hữu hình – chính là vai trò điều tiết của nhà nước. Mà khi sự
bình đẳng tuyệt đối được đảm bảo thì nhà nước lúc đó chính là nhà nước pháp
quyền để bảo vệ quyền cho mỗi người. Nhờ vậy nó sẽ điều tiết các vấn đề trên
đạt đến trạng thái cân bằng quyền lợi cho mọi người theo quan điểm của đa số.
Trạng thái đó là sự bình đẳng phổ biến mà sẽ thường xuyên
biến đổi theo ý muốn thay đổi của con người, kéo xã hội phát triển lên theo đà tiến
bộ về văn hóa của con người, làm cho con người ngày càng thịnh vượng hơn, văn
minh hơn.
THỊNH VƯỢNG HOẶC BẤT ỔN
Trên là cách để chúng ta xây dựng một xã hội ngày càng công bằng hơn nhờ vậy mà
thịnh vượng và văn minh hơn. Giá trị của cách này là ở chổ nó tạo ra một sự cân
bằng thực chất giữa mọi người để họ thực sự chấp nhận trạng thái bình đẳng phổ
biến vì họ đã có đủ quyền tự do để tranh đấu hoặc lựa chọn cho điều họ mong
muốn. Chứ không phải giá trị của nó nằm ở chổ đúng sai của các quan điểm
chuẩn tắc được lựa chọn. Ở đây không có đúng hoặc sai, chỉ có quan điểm nào
thuyết phục được càng nhiều người thì càng phù hợp cho bối cảnh từng giai đoạn.
Không bao giờ có chân lý tuyệt đối ở các quan điểm này. Mọi sự áp đặt quan điểm
công bằng không những đã chứa đựng mầm mống bất công mà còn tạo ra sự bất mãn
mà ngay cả có dùng quyền lực để ép buộc đi nữa thì cũng chỉ gây ra sự đè nén
chứ không phải cân bằng, sự chịu đựng chứ không phải chấp nhận. Do vậy nó luôn
tạo ra sự bất ổn triền miên rồi dẫn đến sụp đổ khi sự đè nén và chịu đựng đã
tới hạn.
Tình trạng bất ổn lâu nay ở đất nước ta có nguồn gốc như thế nên nếu chúng ta
không nhìn nhận và giải quyết vấn đề từ gốc thì mọi nỗ lực ổn định vĩ mô đều sẽ
thất bại, gây thêm tai họa. Nhưng nếu nhìn nhận đúng thì chúng ta không những
nhanh chóng ổn định mà còn sẽ tạo nên những thành tựu vượt bậc. Sự nhìn nhận đó
sẽ giúp chúng ta tránh được một sự sụp đổ mà hậu quả của nó sẽ tàn phá chúng ta
khủng khiếp trong nhiều năm. Sự nhìn đó sẽ giúp chúng ta có được một nền tảng
chính trị vững chắc để xây trên đó những thượng tầng kinh tế, xã hội, văn hóa
liên tục cao hơn mà vẫn ổn định, và có đầy đủ mọi quyền con người của mình như bao
dân tộc tiến bộ ở các quốc gia phát triển để ngày càng thịnh vượng và văn minh.
Nhờ vậy mà chúng ta hạnh phúc.
Sự nhìn nhận đó lại rất đơn giản. Chỉ cần chúng ta tự tin sử dụng hết tất cả
các quyền mặc nhiên của mình theo Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con
người và đã được hiến định đầy đủ thành các quyền công dân của nhân dân
Việt nam tại Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam. Đó là những
quyền con người của chúng ta trong nhà nước pháp quyền của chúng ta. Sự TỰ TIN
đó chắc chắn và nhanh chóng sẽ tạo nên một nền DÂN CHỦ thực chất cho chúng ta
mà ở đó quyền con người thiêng liêng luôn ngự trị tối thượng để bất kỳ ai cũng
có được sự bình đẳng tuyệt đối về quyền của mình so với người khác. Nhờ nền dân
chủ đó mà chúng ta sẽ có được sự CÔNG BẰNG để xác lập các trạng thái bình đẳng
phổ biến làm cân bằng - tức hài hòa ý muốn của chúng ta. Nhờ vậy mà nhu cầu vật
chất lẫn tinh thần của mọi người luôn được đáp ứng tốt nhất, làm chúng ta giàu
có và văn hóa. Chỉ khi đó Việt Nam
ta mới THỊNH VƯỢNG và VĂN MINH được.
Và cũng chỉ có như vậy thì quyền lực tuyệt đối của các quốc gia trên thế giới
mới không nằm trong tay của một nhóm nhỏ cầm quyền, giúp họ dùng nó để gây ra
những thảm họa vật chất lẫn tinh thần cho nhân loại. Đó là cách chúng ta thúc
đẩy hòa bình cho trái đất.
Khi chúng ta tự tin sử dụng các quyền bất khả xâm phạm của mình thì sẽ buộc
những người cầm quyền ở bất cứ thời kỳ nào cũng tôn trọng nguyên tắc Quyền con
người trong nhà nước pháp quyền, cũng tức là tuân thủ quy luật phát triển khách
quan. Đất nước ta đang đối mặt với quá nhiều vấn đề, nhưng chỉ cần chúng ta tự
tin như vậy thì tất yếu chúng sẽ được giải quyết tốt đẹp theo quy luật đó.
Vì vậy mục tiêu tối thượng của Phong trào con đường Việt nam là: “Quyền
con người phải được bảo vệ trên hết và bình đẳng tại Việt Nam “.
TRẦN HUỲNH DUY THỨC
Người khởi xướng.
1 comments:
BA MŨI GIÁP CÔNG - NHẤT ĐIỂM LƯỠNG DIỆN
Sau khi Nguyễn Phú Trọng, TBTCSVN, mở chiến dịch "CHỈNH ĐỐN ĐẢNG", một phái đoàn của BCT/TƯ đảng CSVN đi Canada và Hoa Kỳ để hỗ trợ Nguyễn Phú Trọng với cái gọi là "Triễn khai nghị quyết 36 với Việt Kiều, và Giải Thích Công Cuộc Chỉnh Đốn Đảng với các đảng viên CS và các Chi Bộ đảng ở nước ngoài", và tiếp sau phái đoàn nầy là việc ông Lê thăng Long được csVN giảm án cho ra tù và đang bị quản chế tại địa phương, đã công bố thư kêu gọi và phổ biến Phong Trào "CON ĐUỜNG VIỆT NAM". Nội dung của hai tài liệu đó chỉ nêu khaí quát tình hình của VN về các mặt Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền, sự hình thành một Xã Hội Dân Sự, việc thực thi Pháp Trị và sự tin cậy hổ tương quan trọng giữa nhân dân - đảng - Chính Quyền cho mục đích hòa bình, thịnh vượng của đất nước. Ngoài ra không thấy đề cập đến đảng cộng sản là nguyên nhân tạo ra tình hình các mặt trong xã hội VN ngày càng tồi tệ, và vì vậy phải tìm một biện pháp giải quyết dứt khoát, rõ ràng có tính thuyết phục cao. Đây mới chính là mục đích của vấn đề mà lẽ ra phải được nhấn mạnh và triễn khai chi tiết bằng một kế hoạch khả thi trong "CON ĐƯỜNG VIỆT NAM", nhưng hoàn toàn thiếu vắng nên đã làm thất vọng mọi người còn tấm lòng với Quốc Gia Dân Tộc!
Từ những diễn biến liên hệ đến chính trị nói trên kèm theo Mục Tiêu Tranh Đấu của "Con Đường Việt Nam" không đáp ứng yêu cầu bức thiết hiện nay của nhân dân Việt Nam, đã cho phép người đọc liên nghĩ đến các kế hoạch mà cộng sản Việt Nam đã học được của cộng sản Trung Hoa để áp dụng ở VN trong cuộc chiến Bắc Nam trước 1975. Đó là:
-BA MŨI GIÁP CÔNG: 1- Chỉnh đốn đảng của TBT Nguyễn Phú Trọng. 2-Phái đoàn BCTCSVN triễn khai nghị quyết 36 và vận động về Chỉnh Đốn Đảng ở hải ngoại. 3-"Con đường Việt Nam" của Lê thăng Long.
-NHỨT ĐIỂM LƯỠNG DIỆN. Lưỡng Diện: 1- Vận động đảng viên. 2- Vận động Nhân Dân trong nước và ngoài nước. Nhứt điểm: Cứu nguy đảng cộng sản VN.
Theo trình bày trên đây, thế tất phải có hoài nghi về tư cách và thái độ chính trị của Lê thăng Long qua "Con đường Việt Nam", vừa chung chung thiếu thực tế, vừa mang nỗi bí ẩn của vấn đề bất khả thi đối với người tù chính trị về tội âm mưu lật đổ chính quyền cộng sản còn đang bị quản chế như ông Long. (TS Hà Sĩ Phu cho đó là chuyện động trời)
Người Việt trong và ngoài nước đã trãi nghiệm nhiều thứ với cộng sản nên "kinh cung chi điểu" là phải.
Đăng nhận xét