Nguyễn Thanh Giang
Nhà văn nhà thơ Trần Khải Thanh Thủy "nhỏ lệ cùng dân" |
Cuối tháng tư
2012 tiếng kêu khóc thảm thiết của nông dân Văn Giang mới làm vỡ òa hàng trăm
bài viết góp phần tố cáo, bênh vực, thương cảm… Trước đó 3 năm, với sứ mệnh
tiên phong, nhà báo – nhà văn – nhà thơ Trần Khải Thanh Thuỷ đã có thiên phóng
sự thật đặc sắc:
“ …Gần đây nhất
là chuyện làm trung tâm thương mại Văn Giang, trị giá đầu tư 3.600 tỷ, song
nuốt 520 ha đất vàng đất bạc của người dân ba xã Cửu Cao, Hưng Yên và Xuân Quan
- vốn được coi là đất tỷ phú đã làm cho hàng chục nghìn hộ gia đình khuynh gia
bại sản. 23.000 con người từ đất đi lên, mưu sinh kiếm sống bằng nghề trồng
tỉa, chăm sóc buôn bán cây cảnh, 1m2 vuông đất giá thị trường là 7 triệu, cán
bộ xã bán trao tay nhau là 6 triệu, song chỉ giả cho dân 135 nghìn/ m2 (48
triệu một sào). Biết đất là vàng ròng, bạc đống, sinh lợi nhiều đời, nhiều mặt,
người dân làm đơn xin mua lại với cái giá cắt cổ là 6 triệu, bằng đúng cái giá
cán bộ giao bán trên mạng, nhưng những con buôn của đảng bộ xã lại phân biệt
thành phần giai cấp, phân biệt đối xử, cho nên không chịu bán cho dân làm cây
cảnh và duy trì cuộc sống yên bình như cũ, mà chỉ bán cho cán bộ, chức sắc của
xã để xây biệt thự, nhà lầu, hoặc kinh doanh nhà hàng, khách sạn, sau khi đã
trả cho công ty Việt Hưng theo mức thoả thuận...
Điều đình từ
năm 2004 đến hết năm 2008 không xong, đêm 6, rạng ngày 7-1-2009, cả lực lượng
hùng hậu 600 công an, cảnh sát cơ động, xã hội đen đem theo dùi cui, tấm chắn,
kiếm sắc, còng xích, xe ủi, xe cứu thương, xe tù và hàng chục xe chở người tràn
vào làng, lập tức cây đổ la liệt như xác chết, chuồng trại bị ủi phá tan hoang,
bao nhiêu lán trại bà con dựng để giữ đất bị vùi sâu dưới bàn tay tử thần, gồm
cả chăn màn, lều bạt, vô tuyến, xoong nồi, mì tôm v.v... Sáng ra xót của, bà
con xô vào lấy nhưng tất cả đã muộn, hàng chục tấn cát đã rải đầy trên những
luống hoa, ao cá, lều bạt, thay vào đó là cả rừng dùi cui chờ sẵn, kể từ em bé
lên 7, xót của xót tiền của mẹ cha, cũng là tiền ăn tiền học của mình, nhảy lên
trên đầu xe ủi yêu cầu ngừng lại, lập tức bị những bàn tay thô bạo chộp lấy,
quẳng ra xa để tiếp tục tàn sát nát đồng, trong tiếng kêu gào phản đối, tiếng
than khóc uất hận của cả vạn người dân 3 xã. Những người mẹ 70, 80 tuổi đầu lăn
xả vào giữ đất, giữ cây, giữ tài sản và tương lai con cháu mình lập tức bị cả
đám xã hội đen và đám công an xông vào đánh đến ngất, cứ tấm kính che mặt và
dùi cui nện xuống, không cần biết trước mặt mình là ai, nhi đồng hay phụ nữ, bô
lão, để xứng với cái giá mà công ty Việt Hưng thuê: 500.000 VND một tên (đầu
gấu) và 1 triệu một chiến sĩ công an, riêng cấp chỉ huy thì cứ thế mà nhân lên
theo cấp bậc phù hiệu. Kết quả hàng vạn gốc cây bị lấp, ủi, hàng tỷ tiền gà,
lợn, cây cối hoa màu, cam quýt, cây cảnh, từ lộc vừng, xanh, sung, si, đa,
phượng vĩ, cau vua bị lấp theo. Chưa kể hàng trăm trang trại bốc bay trên mặt
đất, cũng là 6000 người dân xã Cửu Cao và 17.000 người dân của hai xã Xuân Quan
và Phụng Công... trắng mắt, trắng tay trong một ngày.
Trong khi cánh
đồng quê chảy máu, tiếng dân than ướt sũng trời chiều, thì 600 "bạn
dân" và xã hội đen - những người giúp dân thành bần cố, thu quân về trụ sở
uỷ ban nhân dân huyện Văn Giang ăn mừng thắng lợi, báo cáo thành tích lên cấp
trên: "Cuộc vây giáp tình thương đã thu được kết quả tốt đẹp, 100% dân ủng
hộ, tự nguyện, cảm ơn công ty Việt Hưng, cảm ơn chính sách sáng suốt của đảng
và chính quyền xã (vì đã đem lại sự nghèo đói cho dân) và còn cam kết không đi
kiện, cho dù có chết đói trong lòng đảng.
90 mâm cỗ (mỗi mâm 6 người) được ngả ra đánh chén, hàng chục
két bia được khui ra để nâng cốc ăn mừng thắng lợi có một không hai, trên nỗi
đau ngút trời của 23.000 người dân ba xã …” (1).
Kèm theo đấy là
mấy câu thơ:
“Cướp cướp mãi bàn tay không ngừng
nghỉ
Cho ruộng đồng cây trái héo hon thêm
Cho nhân dân phải mất đất, mất vườn
Mất hết cả tương lai sự sống”(1).
Cho ruộng đồng cây trái héo hon thêm
Cho nhân dân phải mất đất, mất vườn
Mất hết cả tương lai sự sống”(1).
Trần Khải Thanh Thủy đã dành ngòi
bút của mình khá nhiều cho dân oan qua hàng loạt bài viết: "Buổi
sáng kinh hoàng" (cuộc tự thiêu của chị Phạm thị Trung Thu); "Đêm
dân oan nghĩ về Ngô Tất Tố", "Kinh thành Hà Nội chít khăn sô",
"Từ thân phận dân oan nghĩ về đảng cộng sản Việt Nam", "Thái
Bình dạy sóng", "Còn bị lừa dối đến bao giờ ?", "Tuyệt mệnh
vì bị luật pháp ức hiếp", "Không nên đẩy người dân đến bước đường
cùng", "Oan này còn một kêu trời nhưng xa", “Tự lập vùng lên”, "Cuộc
càn quét giữa lòng thủ đô", "Hà Nội- những ngày bình thường đã cháy
lên", "Thư ngỏ gửi ông Nông Đức Mạnh, thư rủ ông Nông xuống suối nhặt
vàng (di thư của Phạm thị Lộc),"Gởi ngài tổng bí họ
Nông"; "Hà Nội đứng lên rồi", “Dân oan Việt Nam - khúc ruột thừa
đau đớn” …
Niềm thương cảm
quặn lòng dồn nén thành nỗi hờn căm đến nỗi gần đây đã bật lên thành lời hiệu
triệu trong một bài thơ mới làm hôm 2 – 5 – 2012 của Trần Khải Thanh Thủy:
“…Nay chiếm đất, mai đè đầu cưỡi cổ
Giữa đói nghèo dân chết đói niềm tin
Đứng lên thôi trị giặc đảng tham tàn
Đem sinh mệnh mình ra mà giữ đất .
Không đổ máu đâu còn là Tổ quốc?
Định nghĩa Việt Nam là phải chống đảng càn… ”(2)
Giữa đói nghèo dân chết đói niềm tin
Đứng lên thôi trị giặc đảng tham tàn
Đem sinh mệnh mình ra mà giữ đất .
Không đổ máu đâu còn là Tổ quốc?
Định nghĩa Việt Nam là phải chống đảng càn… ”(2)
Vốn bị coi là phần tử “cải
lương” chỉ chủ trương “Diến biến hòa bình”, tôi rợn người
trước cái“Định nghĩa Việt Nam” của Trần Khải Thanh Thủy: “Không
đổ máu đâu còn là Tổ quốc?”. Song, không thể không suy ngẫm về cái nguồn
cơn đã biến Trần Khải Thanh Thủy vốn là “hậu duệ”của Hồ Xuân Hương,
của Bà Huyện Thanh Quan bỗng muốn theo chân Bà Trưng, Bà Triệu phất cờ.
Cách đây không
lâu ta còn thấy Trần Khải Thanh Thủy ca ngợi sự nhịn nhục:
“Từ bao đời nay, người dân Việt Nam vốn nổi tiếng là cần cù
chịu khó, chân chỉ, hạt bột, trong giao tiếp luôn lấy câu cửa miệng của ông bà
để lại để tự răn mình: “một sự nhịn là chín sự lành”. Họ sẵn sàng nhường nhịn,
chịu đựng, và luôn tìm cớ để biện hộ cho hành vi nhịn, nhục của mình. Sự nhường
nhịn dường như đã thành bản chất cố hữu, thành phép tắc căn bản trong ứng xử
riêng của mỗi người. Thậm chí cao hơn sự nhường nhịn là chịu đựng. Chịu đựng để
giữ lấy nếp nhà, để không vì việc nhỏ mà hỏng việc lớn, để không vì chuyện của
mình mà phá vỡ mối quan hệ tốt đẹp với hàng xóm, với lãnh đạo xóm, thôn v.v …
Chịu đựng, theo suy nghĩ đơn giản, thô mộc của họ - là cái gốc của điều thiện,
là sự chia sẻ với những khó khăn của làng nước, cao hơn nữa là cấp xã, huyện
tỉnh, trung ương. Sự chịu đựng của họ bao nhiêu năm qua, đặc biệt trong thời kỳ
“chống Mỹ, cứu nước” cũng như xây dựng, kiến thiết trong thời bình đã chứng tỏ
họ là những con người thật sự cao cả, biết hy sinh, sẵn sàng bỏ qua những sai
lầm của lãnh đạo đảng và nhà nước để luôn tin tưởng vào các chính sách của
chính phủ ban hành, từ thuế má, ruộng đất, chế độ v.v. ”
(3).
Vốn không dữ dằn với chủ trương “làm
giặc”, vậy mà, trớ trêu sao, tai họa đầu tiên giáng xuống đầu Trần Khải Thanh
Thủy lại xuất phát từ tấm lòng từ bi khi nhân dịp kỷ niệm ngày thương binh liệt
sĩ 27-7 năm 1994 nhà báo này đã viết cả chùm bài bênh vực các bà mẹ Việt Nam
anh hùng: "Nước mắt chưa khô trên má mẹ hiền"; "Đêm đêm
nhang cháy đỏ bàn thờ", “Bão còn thổi trong những vành tang trắng",
"Đất nước gian lao chưa bao giờ bình yên", "Vẫn còn đó nỗi đau
của các bà mẹ liệt sĩ", "Cuộc đời mẹ là của nước non"...
cùng chùm bài phản ánh nỗi đau trong các gia đình thương binh nhiễm chất độc da
cam sinh ra trẻ thơ tật nguyền: "Con của những người lính Trường
Sơn năm xưa"; "Con của những người lính trên quê hương Thái
Bình", rồi"Vườn không, nhà trống, tàn hoang" v.v...
Chỉ vì những
bài báo bênh các bà mẹ Việt Nam anh hùng và gia đình các thương binh nhiễm chất
độc gia cam ấy mà đang là một phóng viên của một tờ báo của Đảng, Trần Khải
Thanh Thủy vẫn phải nhận lệnh bị treo bút 6 tháng.
Một trong những
bài thơ hay nhất của Trần Khải Thanh Thủy là viết về các tử sỹ:
Tôi nằm lại đây chốn nghĩa trang
Trạm cuối cùng cuộc đời bao số kiếp
Đất phủ kín mình tôi gíá lạnh
Khói nhang thơm mách nẻo đi về
Trạm cuối cùng cuộc đời bao số kiếp
Đất phủ kín mình tôi gíá lạnh
Khói nhang thơm mách nẻo đi về
Quà chia tay bạn hữu tặng trao
Nhị rữa nát hám hôi mùi nghĩa địa
Gió cứ thổi vật vờ khoang đất trống
Quạ tru rên từ khoang đất không người
Nhị rữa nát hám hôi mùi nghĩa địa
Gió cứ thổi vật vờ khoang đất trống
Quạ tru rên từ khoang đất không người
Cỏ đã xanh rờn chân, tóc, tai
Hồn tôi thoát tục để băng ngàn
Lang thang rừng thẳm muôn nơi ngắm
Cõi trần ai người sống đoạ đầy
Hồn tôi thoát tục để băng ngàn
Lang thang rừng thẳm muôn nơi ngắm
Cõi trần ai người sống đoạ đầy
Thôi hãy xanh cùng với đất đai
Tạo hoá anh minh đã mỉm cười (5).
Tạo hoá anh minh đã mỉm cười (5).
Từ khi gia nhập phong trào đấu tranh
dân chủ, trái tim nhân ái của Trần Khải Thanh Thủy dành cho đồng chí, đồng đội
của mình còn tha thiết hơn. Hãy nghe Trần Khải Thanh Thủy kể về nỗi gian lao “ngậm
ngải tìm trầm” đối với Lê thị Kim Thu:
“Gần 4 tháng trời kể từ ngày Lê Thị
Kim Thu bị bắt (14-8-2008) tôi chưa khi nào ăn ngon ngủ yên, nỗi hẫng hụt vì
Thu bị bắt - một rễ chính bị đứt, cả chùm rễ phụ hoảng hốt, cả tầng tán xanh bị
chao nghiêng đổ ngả...
Đau
xót vì mất phong trào đã đành, càng đau xót vì cảnh Thu bị bỏ đói. …Vì vậy,
trong khi gia đình Thu ở xa, bao nhiêu ngày chờ đợi, liên lạc không kết quả,
tôi không biết làm gì ngoài việc thả những đồng tiền ra cho những kẻ mồi chài,
hoặc những người dân oan đói khổ mò mẫm tìm đường, tìm cách tiếp tế cho Thu mà
tất cả đều là sự lêu lổng, vô vọng.
……Rủ
cô bé Liên - người cùng trại B14 với tôi trước kia cùng đi, chúng tôi bí mật
tiếp xúc với một trong số địa chỉ vừa có được. Người này không phải ai xa lạ mà
chính là một trong số các quản giáo của trại. Vừa nhắc đến tên Lê Thị Kim Thu,
chị ta đã giãy nảy:
-
"Ôi, tưởng ai, trường hợp này tôi chịu, không giúp được đâu. Tù này là tù
chính trị, án đặc biệt, giúp để chúng tôi vào ngồi thay à? Hay bao nhiêu công
lao thành tích suốt 31 năm trời công tác đổ xuống sông, xuống biển?
Biết
"xôi" đã hỏng, nhưng "bỏng" thì vẫn có thể có được, tôi nán
lại hỏi:
-
Sao lại thế chị, chỉ là gây rối trật tự công cộng thôi mà, với lại đã xử rồi,
thì phạm nào chả là phạm, Thu có được ở phòng riêng, hưởng chế độ riêng đâu mà
phân biệt chính trị với thường phạm. Không cần suy nghĩ lâu la gì chị ta bộc
trực đáp:
- Dù là tù có án nhưng con bé vẫn hiên ngang lắm, chẳng hề
biết sợ điều gì. Bị còng tay lên xe tù đưa ra toà xử rồi, trở về phòng giam vẫn
oang oang kể lại mọi chuyện đã diễn ra trong phiên toà ra sao, bị đập bàn thế
nào, quát trở lại các thành viên trong hội động xét xử ra sao? Bị toà cắt ngang
lời không cho nói vẫn cứ tiếp tục lôi cái sai, cái vướng mắc trong các biên
bản, nghị quyết, công văn trả lời việc đòi đất 21 năm ra sao? Cho đến khi toà
quyết định 18 tháng tù giam, công an khoá xích vào tay lôi ra ngoài để về trại
rồi, ngang qua mặt hội đồng xét xử, vẫn tiếp tục giơ cao cánh tay bị còng lên
chỉ mặt họ, bảo: "- Tôi nói cho các ông biết nhớ, cho dù các ông
có kết án tôi 18 tháng thì khi ra tù tôi vẫn tiếp tục đi kiện..." đến
mức công an chúng tôi phải bất bình bảo: " - Nếu ra tù mà còn cố
tình đi kiện thì sẽ cho tù chung thân luôn"...mà đâu đã biết sợ, lại còn
đòi kháng án (4).
Trần Khải Thanh
Thủy có sức viết mạnh và nhanh đến kỳ lạ. Không kể hàng trăm bài chính luận và
tập sách xuất bản ở nước ngoài (“Nhỏ lệ cùng dân” là một trong số này), chỉ
tính riêng sách được ấn hành trong nước đã có:
-Thơ
đố, Nhà xuất bản văn hóa Dân Tộc, 1989
-Ngôi
nhà của Gấu, Nhà xuất bản Kim Đồng, 1998
-Vợ
chồng như thớt với dao, (truyện vui), Nhà xuất bản Thanh Niên, 2000
-Sông
không đến, bến không vào, Nhà xuất bản Kim Đồng, 2000
-Làm
chị, Nhà xuất bản Kim Đồng, 2001
-Băm
sáu cái nõn nường..., Nhà xuất bản văn hóa Dân Tộc, 2002
-Từ
trong cổ tích, (truyện ký), Nhà xuất bản Kim đồng, 2003
-Lưu
Hương Ký, (bình chú), Nhà xuất bản Thanh Niên, 2004
-Khát
sống, (truyện ký), Nhà xuất bản Kim Đồng, 2004
-Âm
thầm, (thơ), Hội Liên Hiệp Nghệ Thuật Hà Nội 2004
-Biết
yêu từ thở còn thơ, (phóng sự), NXB Hội Nhà Văn, 2005
-Song
hỉ lâm môn, (truyện vui), Nhà xuất bản Hà Nội, 2005
-Khúc
khích xuân Hương, Nhà xuất bản văn hóa Dân Tộc, 2005
-Tôn
Thất Bách - Y Đức một đời, Nhà xuất bản Kim Đồng, 2006
(Trong danh mục những bài viết của
Trần Khải Thanh Thủy tra từ google, tôi ngạc nhiên thấy có cả bài “Chính trị và
chiếc giường”! Bài này bịa chuyện tôi “lên giường” với Trần Khải Thanh Thủy.
Tôi cùng tuổi Tý với Trần Khải Thanh Thủy nhưng hơn tuổi thân mẫu cô ấy. Người
(hay tập thể) viết bài này ký tên Ngô Tử Lâm, song chắc chắn đây không phải tên
hay bút danh thật vì dẫu ngu ngốc đểu cáng đến mấy người ta cũng phải biết sợ
sự hổ nhục của vợ con, họ hàng của họ khi biết họ làm việc này. Tưởng cũng
không cần thanh minh làm gì nhưng cứ phải nói để bạn đọc thấy rõ hơn sự đê tiện
bẩn thỉu của cả một hệ thống. Đọc bài ai cũng dễ dàng nhận ra người viết không
có tư thù với tôi mà chẳng qua chỉ vì viết theo chỉ thị. Họ không chỉ vu khống
tôi đối với Trần Khải Thanh Thủy mà còn đã từng “rải truyền đơn” bằng
tay và qua bưu điện bôi bẩn tôi tằng tịu với vợ Phạm Hồng Sơn, vợ Nguyễn Vũ
Bình. Nguyên do là, vào thời ấy, tôi hầu như là chỗ dựa duy nhất để ba người
phụ nữ này có thể tìm sự hỗ trợ về cả tinh thần và vật chất trong hoàn cảnh
gieo neo của họ. Người ta ngứa mắt muốn khống chế việc làm này vừa là để đầy
đọa những phụ nữ này cho bõ ghét, vừa để ngăn trở sự giúp đỡ của tôi đưa họ đến
với công luận. Ngón đòn của hệ thống độc địa, khốn nạn đến mức có thể làm tan
nát gia đình chúng tôi nếu vợ con tôi không tuyệt đối tin vào phẩm chất của
tôi)
Đã từng đứng trên bục giảng suốt 11
năm “gieo ánh sáng văn hóa của Đảng” tận vùng sâu vùng xa, đã
từng cống hiến cho kho tàng báo chí văn học của Đảng hàng trăm sáng tác phẩm
không thể nói là không có giá trị, nhưng chỉ vì không chịu tiếp tục bán rẻ
lương tâm nên Trần Khải Thanh Thủy đã bị Đảng trừng trị quá chừng tàn khốc.
Không chỉ bôi bẩn thanh danh, bắt bớ, lục soát, đem ra đấu tố sỉ nhục mà còn bị
huy động côn đồ đánh vỡ đầu, đổ phân tươi, xác chuột vào nhà … Đến nỗi người
nước ngoài cũng phải lên tiếng như bức thư dưới đây của Tham tán Chính trị Đại
sứ quán Hoa Kỳ:
“Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ, Hà Nội
Ngày 21 tháng 4 năm 2009
Ông Nguyễn
Thanh Sơn
Chánh Văn Phòng
Nhân Quyền
Bộ Công An
Ông
Sơn kính,
Tôi
viết thư này gởi đến ông để bày tỏ sự quan tâm về tình trạng hiện tại của bà
Trần Khải Thanh Thủy, một nhà Văn đang sống ở Hà Nội. Trong vài tháng qua,
chúng tôi đã xem qua những bản tường trình về ít nhất 10 lần cố ý quấy nhiễu bà
và gia đình của bà bằng việc ném những phân tươi và dầu nhớt vào chỗ ở của bà
ta.
Chúng
tôi hiểu rằng bà Thủy đã lên tiếng những vụ việc này với nhà chức trách địa
phương nhưng họ chẳng làm gì hết và tình trạng cứ tiếp tục mức độ gia tăng đến
sự chú ý của quốc tế, trong đó có Hoa Kỳ. Chúng tôi vì thế thúc dục ông và
những nhân viên thừa hành điều tra những tường trình này và thực hiện những
hành động cần thiết theo luật pháp của Việt Nam. Tôi mong mỏi ông chú ý đến vấn
đề này.
Kính đơn,
Brian Aggeler
Tham Tán Chính Trị”
Do lao động cật
lực, Trần Khải Thanh Thủy mắc nhiều chứng bệnh hiểm nghèo, vậy mà Đảng không hề
nương tay đầy ải:
Ta lử lả tấn công vào sự sống
Lam Sơn ơi chướng khí rợn người
Đêm 5 tiếng ngủ không tròn giấc
Ngày 14 canh lê lết mệt nhoài
Lam Sơn ơi chướng khí rợn người
Đêm 5 tiếng ngủ không tròn giấc
Ngày 14 canh lê lết mệt nhoài
Thiếu ngủ triền miên đầu đau như búa bổ
Vạ vật gốc cây, bờ bụi mỏi tê người
Đại tràng viêm đêm ngày la ó
Lồng ngực gày rên xiết bi ai
Vạ vật gốc cây, bờ bụi mỏi tê người
Đại tràng viêm đêm ngày la ó
Lồng ngực gày rên xiết bi ai
Ta tự hỏi sao đời lâm khổ ải
Ốm đau không được nghỉ dưỡng thân già
Đường tranh đấu bao ngày ta nếm trải
Dây thép gai, còng xích quấn quanh người
Ốm đau không được nghỉ dưỡng thân già
Đường tranh đấu bao ngày ta nếm trải
Dây thép gai, còng xích quấn quanh người
51 tuổi, đời gặp bao khổ nạn
Chướng khí Lam Sơn gặm nhấm từng ngày
Đêm trằn trọc nơi sàn lạnh cứng
Ngày nắng tuôn lè lưỡi há mồm
Chướng khí Lam Sơn gặm nhấm từng ngày
Đêm trằn trọc nơi sàn lạnh cứng
Ngày nắng tuôn lè lưỡi há mồm
Ôi Lam Sơn bây giờ ta mới hiểu
Nghiệt ngã đau thương tang tóc nhường nào
Bao số phận quằn quại rên xiết
Ngọn núi Mành bao xác chết vùi chôn
Nghiệt ngã đau thương tang tóc nhường nào
Bao số phận quằn quại rên xiết
Ngọn núi Mành bao xác chết vùi chôn
Trại loại I chỉ giam cầm trọng án
Thành phần hiểm nguy – ta sa chốn ngục tù
Lê Thị Công Nhân, Phạm Thanh Nghiên cũng vậy
Lịch sử ơi ghi khắc điều này
Thành phần hiểm nguy – ta sa chốn ngục tù
Lê Thị Công Nhân, Phạm Thanh Nghiên cũng vậy
Lịch sử ơi ghi khắc điều này
Ta lử lả tấn công vào sự sống
Trời Lam Sơn nắng nóng nung người
Cả chảo lửa khổng lồ trút xuống
Xưởng bạc thành lò hun chín thịt da
Trời Lam Sơn nắng nóng nung người
Cả chảo lửa khổng lồ trút xuống
Xưởng bạc thành lò hun chín thịt da
Ôi Lam Sơn bao giờ thoát nợ?
Về với mẹ hiền, về với trang thơ
Đường tranh đấu bao năm rồi gian khổ
Đến bao giờ hoa thắm nở hồn ta? (6)
Về với mẹ hiền, về với trang thơ
Đường tranh đấu bao năm rồi gian khổ
Đến bao giờ hoa thắm nở hồn ta? (6)
Nhà văn Chu Tất
Tiến đã viết như sau về Trần Khải Thanh Thủy:
“Em bỏ thành phố này sang tỉnh lỵ khác, em mất tập bản thảo
này lại sáng tác bài kia, em lùi một bước vì đứa con thơ nhưng lại tiến lên
liên hoàn mấy nhịp điệu mới. Em là giòng nước xanh, Thanh Thủy, dịu dàng luân
vũ sông Hồng, ẻo lả sông Thương, dũng mãnh sông Cửu, ngang ngạnh sông Thu Bồn,
sông Gâm. Em dồi dào phù sa, em tuôn chẩy sức sống, mặc cho người đào bới, lấp
ngọn, ngăn nguồn. Những bài văn của em vẫn đều đều một giọng thanh cao, mặc dù
thấp thoáng trong đó là rêu xanh, cỏ úa. Tuy em chửi đời, nhưng vẫn yêu người,
Con Người Chân Thực, và Con Nguời Hy Vọng. Em viết trân trọng về Hồ Xuân Hương,
một phản kháng trong thi ca, nhưng chính em mới là một Hồ Xuân Hương cách mạng
từ ý tưởng đến ngôn từ. Cách trình bầy "phồn thực" của em thật là độc
đáo, trây trúa mà thơ ngây, dân dã mà trí thức. Cô giáo như em là ngòi nổ sân
trường, là cánh hoa phượng gắt gao, đỏ chói, rực rỡ báo mùa nóng bức đang tới.
Các đoạn ca dao, tục ngữ của em bắt người đọc cười như điên, rồi lại chùng
xuống nức nở với các bài viết về sự tra tấn, hành hạ giữa người tự phong là
"đỉnh cao trí tuệ" và người bị coi là đồ vật của một tập thể độc tài,
mất lương tri”.
Một tờ báo nước ngoài đã gọi nhà
giáo - nhà báo - nhà thơ - nhà văn, hội viên Danh dự Hội Văn bút Quốc tế Anh
Trần Khải Thanh Thủy là Aung San Suu Kyi của Việt Nam.
Rút trong cuốn “ĐÊM DÀY LẤP LÁNH”
Rút trong cuốn “ĐÊM DÀY LẤP LÁNH”
Nguyễn Thanh Giang
Số nhà 6 – Tập
thể Địa Vật lý Máy bay
Trung Văn – Từ
Liêm – Hà Nội
Điện thoại:
(04) 35 534 370
Ghi chú:
2- Trần Khải Thanh Thủy – Định nghĩa Việt Nam
3- Trần Khải Thanh Thủy – Tự Lập vùng lên
4- Trần Khải Thanh Thủy – Chuyện kể về người tù đặc biệt
5- Trần Khải Thanh Thủy – Lời người dưới mộ
6- Trần Khải Thanh Thủy – Đến bao giờ hoa nở thắm hồn ta?
0 comments:
Đăng nhận xét