Benjamin Barber - Bản dịch UBNQVN
Giáo sư Chính trị học phụ trách
Chương trình Walt Whitman, thuộc Đại học Rutgers, New Jersey
Đây là bài nói chuyện của Giáo sư Barber trong buổi hội thảo về Xã
hội Dân sự do Civnet tổ chức năm 1997. Bài này được đăng lại trong Tập san Xã
hội Dân sự, bộ I, số 1, năm 1997. Những chỗ in nghiêng trong bản dịch là của
người dịch để nhấn mạnh.
*
Tôi xin chân thành cám ơn Penn Kemble, Joseph Duffey và Cơ
quan Thông tin Hoa Kỳ đã mời tôi đến nói chuyện ngày hôm nay, dù biết tôi là
một người hay “kiếm chuyện,” một người mà hầu như chẳng khi nào dùng những mỹ
từ sáo rỗng khi nói về dân chủ. Tôi thì lại nghĩ rằng họ khuyến khích tôi tới
chỉ vì họ hiểu rằng, trên tất cả mọi thứ, dân chủ tức là “kiếm chuyện,” là đặt
vấn đề, là đương đầu với quyền lực, là thách thức các giáo điều, ngay cả đó
chính là giáo điều dân chủ. Và bởi vì họ đánh giá đúng đắn rằng sau hơn 200
năm, người Mỹ cũng không nhất thiết đã tiến gần hơn tới việc thực thi được hoàn
toàn dân chủ so với những nước chỉ mới có hai mươi hay chỉ hai năm kinh nghiệm về
dân chủ. Những vấn đề về sắc tộc và giai cấp vẫn còn gây nhức nhối cho nước Mỹ.
Penn Kemble, ngày hôm qua, đã yêu cầu những người trong hội trường này giơ tay
lên nếu trong nước của họ vẫn còn có xung đột về sắc tộc. Tôi là một trong
những người đó.Chính vì bản chất của nó mà dân chủ là một tiến trình của một
cuộc thử nghiệm đang diễn ra, chứ không phải là cứu cánh hay là một tập hợp các
giáo điều cứng ngắc.
Nếu chúng ta, thế hệ sau nối tiếp thế hệ trước, không tiếp
tục gìn giữ nó, thì những lý tưởng dân chủ sẽ trở nên chẳng khác gì các ý thức
hệ khác. Một xã hội mở có nghĩa là một xã hội không bao giờ có sự chấm dứt thảo
luận. Một xã hội mở ra cho các thách thức và phê phán. Khi một nước tuyên bố
rằng công cuộc xây dựng dân chủ tại đó đã xong, thì điều đó cũng có nghĩa là
nền dân chủ cũng đã chấm dứt tại đó. Trong tinh thần hoài nghi của dân chủ, tôi
muốn đặt ra một số vấn đề khó khăn mà chúng ta, những nhà giáo dục, phải đối
diện. Đây là những vấn đề mà câu trả lời sẽ ảnh hưởng đến tất cả những người
dân chủ, thế hệ già cũng như trẻ. Sau đây là 4 vấn đề có liên quan với nhau.
Thứ nhất: dân chủ có xuất cảng được không? Liệu dân chủ có
phải là một món hàng mà người ta có thể gửi qua đường bưu điện, hay qua FedEx
hay qua điện thư tới những người không có nó chăng?
Thứ hai: Có phải dân chủ chỉ là một chức năng của định chế
chính trị và là một hiến pháp được viết thành văn cùng với đạo luật về dân
quyền? Có phải tự do có thể chiến thắng được bằng cách viết ra hay đi
mượn một hiến pháp của người khác hay chế tạo ra một mô hình quốc hội?
Thứ ba: Có phải dân chủ đồng nghĩa với thị trường không? Có
chắc là sự thất bại của chủ nghĩa cộng sản và sự đắc thắng của chủ nghĩa tư bản
sẽ đưa đến việc thiết lập thể chế dân chủ hay không?
Và thứ tư: Có phải dân chủ được thiết lập nhờ vào sự lãnh
đạo kiên quyết của những chính trị gia anh hùng, hay những nhà lãnh đạo lỗi lạc
như Churchills, de Gaulles, Roosevelts, và Havels?
Câu trả lời ngắn gọn của tôi cho các câu hỏi đó là: không,
không, không, và không…
Niềm tin cho rằng dân chủ là món hàng có thể xuất cảng được
là huyền thoại thứ nhất; cho rằng dân chủ chỉ là một hình thức của chính quyền
là huyền thoại thứ hai; cho rằng dân chủ thoát thai từ chủ nghĩa tư bản là
huyền thoại thứ ba; cho rằng dân chủ được thiết lập nhờ các nhà lãnh đạo anh
hùng là huyền thoại thứ tư, và bốn huyền thoại này là những huyền thoại có sức
quyến rũ nguy hiểm đối với những nhà dân chủ tương lai. Tôi sẽ nói một chút về
mỗi huyền thoại này.
Về huyền thoại thứ nhất, thực ra chúng ta–những người Mỹ,
Tây Âu, chứ không phải những người ở Đông Âu, Nga, Phi châu, và Á châu cùng với
các nước đang có chuyển biến xã hội–mới là những người cần nhớ là dân chủ chưa
bao giờ là một món quà của một dân tộc này trao cho dân tộc khác, mà nó là một
kết quả rất tốn kém giành được từ những cuộc đấu tranh gian lao tại địa phương.
Dân chủ là kết quả giành được, chứ không phải là món quà để cho, đó cũng là
điều mà rất nhiều quý vị ngồi đây đã chứng minh, cũng như nước Mỹ đã chứng minh
cho cả thế giới hơn hai trăm năm trước đây.
Hơn nữa, dù cho những cuộc đấu tranh cho dân chủ ở khắp nơi
đều được đặt trên căn bản của những lý tưởng đã được chấp nhận trên toàn thế
giới, các cuộc đấu tranh này và các chế độ dân chủ khi được hình thành cũng rất
khác nhau. Trong những năm trước khi cuộc cách mạng tại Mỹ xảy ra, các tiểu
bang theo Thanh giáo như tại Massachussetts, cấp tiến như tại Pennsylvania và
những tiểu bang có nô lệ tại miền Nam đều có những hệ thống chính trị khác
nhau. Và những định chế chính trị địa phương của chúng ta ngày nay thể hiện sự
khác biệt này. Cây dân chủ mọc lên khác nhau theo từng xứ, và ở mỗi nước, cây
dân chủ trưởng thành khác nhau. Người dân Thụy sĩ coi trọng quyền của cộng đồng
hơn quyền của cá nhân. Anh quốc không có sự phân quyền rõ rệt, trong khi người
Mỹ lại cho rằng không thể tách rời sự phân quyền ra khỏi chính quyền. Hiến pháp
mới của Ethiopia lại phải đề cập tới truyền thống bộ tộc. Ba-lan là một nước
theo Công giáo và không thể xóa mờ ảnh hưởng của Công giáo ra khỏi các định chế
chính trị mới xây dựng, trong khi đó Ái-nhĩ-lan lại không có sự phân cách giữa
giáo hội và nhà nước. Nước Đức theo thể chế liên bang, còn Pháp lại là nước
theo thể chế chính quyền trung ương. Những sự khác biệt giữa các nền dân chủ đã
được thành lập cho ta thấy sẽ còn rất nhiều những sự khác biệt trong những nền
dân chủ mới đang được thành lập.
Các nền dân chủ mới cần tìm ra cho mình các định chế thích
hợp và, tôi tin rằng, sẽ thành công khi tìm từ các nguồn cảm hứng ngay trong
lịch sử và văn hóa của chính mình. Tỷ dụ định chế cộng đồng làng xã ở Nga, hay
tổ chức hữu nghị của Romania, hay ngay cả Ủy ban Lao động của thời Xô-viết cũng
là một cơ cấu đáng lưu ý, miễn hồ cơ cấu này không bị những người Bolshevic hay
Cộng sản lũng đoạn. Từ bỏ chủ nghĩa cộng sản không nhất thiết phải quăng hết
vào thùng rác các chiến lược kinh tế khác như hợp tác xã hay nhân viên được
chia cổ phần của công ty. Vào thời cổ, người ta thường nói rằng: “Đừng tin
người Hy lạp, nhất là khi họ mang theo quà tặng.” Các nền dân chủ mới cũng vậy,
quý vị cũng nên nghi ngờ những nền dân chủ đã thành hình nhất là khi họ mang
theo những lời khuyên làm quà tặng. Kể cả những điều do tôi cố vấn. Cuộc thử
nghiệm dân chủ độc đáo của nước Mỹ chỉ có thể được mô phỏng hoặc vay mượn khi
mỗi nước cũng thấy được mô hình dân chủ của chính mình cũng độc đáo và cũng
mang tính chất thử nghiệm. Điều này trở nên rõ rệt hơn khi chúng ta bàn đến vấn
đề sự thể hiện của dân chủ qua các định chế chính trị.
Đến đây tôi xin nói về huyền thoại thứ hai, tức là huyền
thoại cho rằng dân chủ chỉ gồm một số các định chế chính trị, như những chiếc
xe cũ có thể xuất khẩu được từ nước này sang nước nọ: Chỉ cần thay vài bộ phận
mới, chỉnh chỗ này một tý, sửa chỗ kia một tý cho hợp với khí hậu, là ta có thể
lái đi bất cứ nơi đâu. Nhưng dân chủ không phài là bản họa đồ của xe hơi. Cây
dân chủ không thể bị áp đặt từ trên xuống, mà phải mọc từ dưới lên. Xin
nhớ: Hiến Pháp không tạo nên dân chủ, mà chính dân chủ tạo nên hiến
pháp. Đạo luật về dân quyền không tạo ra quyền mà chỉ điển chế hóa
các dân quyền đã được định nghĩa, đã do người dân giành được qua đấu tranh.
Nước Mỹ có một trăm năm mươi năm kinh nghiệm về xã hội dân sự và văn hóa công
dân địa phương trước khi những kinh nghiệm này được ghi vào trong hiến pháp và
đạo luật dân quyền. Nước Anh cho đến nay vẫn còn chưa viết thành văn bản hiến
pháp quy định các quyền tự do mà dân Anh đã được hưởng từ nhiều thế kỷ. Đạo
luật dân quyền chẳng qua chỉ là một miếng giấy! Như Madison[1] đã từng
nói, “Một thứ rào cản bằng giấy” không thể nào bảo vệ được cho tự do thực sự.
Không có công dân thì sẽ không có tự do, và nếu không có giáo dục và văn hóa
công dân, thì sẽ không có công dân–đó là lý do tại sao công việc của quý vị
trong tư cách những nhà giáo dục, những nhà hoạt động xã hội, những nhà hoạt
động cộng đồng thiện nguyện, phi-chính phủ lại trở nên vô cùng quan trọng. Dân
chủ, như John Dewey đã nói, không phải là một mô hình chính quyền, mà là một
cách sống, là một tập hợp của những thái độ cư xử đã thành tập quán, của sự suy
tư vừa độc lập vừa hợp tác, của cả những mâu thuẫn và đồng thuận về quan điểm.
Nước Liên Xô cũ có một đạo luật về dân quyền tuyệt hảo đấy chứ, tôi rất ngạc
nhiên khi một sinh viên đọc cho tôi nghe đạo luật này. Nó còn tốt hơn cả đạo
luật về dân quyền của Mỹ!
Nhưng dĩ nhiên, nó chỉ là một mảnh giấy vô dụng, bởi vì
không có công dân [yểm trợ], nó hoàn toàn vô nghĩa.
Nước Nga ngày nay và các thành viên khác của Liên Xô cũ đã
có những định chế dân chủ được thiết lập, nhưng sự khó khăn đang xảy ra tại
những nước này, như quý vị đều biết, là tạo được cho những định chế này một căn
bản về xã hội dân sự, về tôn giáo dân sự, về lòng khoan dung và tương trợ trong
giao tế.
Và để xây dựng những điều này cần có thời giờ. Sự kiên nhẫn
là đức tính vĩ đại nhất của dân chủ, nhưng ta lại luôn luôn thiếu đức tính này.
Hỡi những quý vị đang ở trong những nước mới giành được dân chủ hay đang chuyển
tiếp sang dân chủ, quý vị mong muốn làm được trong 6 tháng hay 6 năm những điều
mà chúng tôi, những nước đã có dân chủ ổn định, đã làm trong 60 hoặc 600 năm mà
vẫn chưa xong. Và những vấn nạn của quý vị, dĩ nhiên, không phải là những vấn
nạn dễ dàng giải quyết, vì sự quan tâm của quần chúng đối với các vấn đề xã hội
-trong cả những nước dân chủ cũ và mới-đang bị những thế lực khác thu hút.
Những nhà giáo dục thực sự của thanh thiếu niên ở Mỹ, Âu châu, Phi châu, và Á
châu không phải ở trong học đường, các giáo đường Thiên Chúa giáo, Hồi giáo,
hay Do Thái giáo, hay trong gia đình, mà là ở vô tuyến truyền hình và phim ảnh.
Liệu một giờ giáo dục công dân, mỗi tuần một hay hai lần, có thể cạnh tranh với
MTV được không? Liệu một cuộc vận động tranh cử có thu hút được sự chú tâm của
cử tri bằng một giờ phim “bộ” không? Liệu chúng ta có thể dạy về hòa bình trong
khi phim ảnh cổ xúy bạo lực không? Liệu một nhóm NGO hay ngay cả hai mươi lăm
ngàn tổ chức NGO có so sánh được với McDonalds hay Microsoft, hay công ty Walt
Disney không? Diễn giả Cooke, tối hôm qua, đã nhắc chúng ta rằng, dù tốt hay
xấu thì phim ảnh cũng là nhà giáo trong thời đại của chúng ta. Rủi thay, đó lại
là nhà giáo dở. Tôi cũng để ý thấy phần lớn những phim mà diễn giả Cooke lựa
chọn, toàn là những phim đã hai mươi, ba mươi, hay bốn mươi tuổi. Gần đây ta
không còn thấy những phim ảnh loại này nữa. Những bài học của Oliver Stone,
Kevin Costner và Arnold Schwarzeneger không phải là, và không thể là những bài
học công dân. Mục đích của những bài học này rất đơn giản: kiếm được nhiều tiền
lời so với số tiền đã đầu tư. Những bài học này không phải để gieo truyền dân
chủ mà chỉ để bán cho được nhiều vé.
Và đó chính là sự khác biệt.
Sự khác biệt này dẫn đến điều thứ ba, một huyền thoại mà
theo tôi khó giải thích nhất. Trước hết, dân chủ không đồng nghĩa với thị
trường tự do. “Cái” tự do để mua một lon Coke hay một cuốn video phim Lion King
không phải là thứ tự do để xác định xem là ta sẽ sống với nhau như thế nào và ở
dưới thể chế nào. Coke, McDonalds và MTV, xin quý vị đừng quên, đều có mặt ở
Singapore, Trung Hoa, và Trung Đông, và ở những nơi không có dân chủ, cũng như
có mặt ở Nga, Cộng hòa Tiệp, Đức, và Mỹ. Mặc dù tôi không có ý phản bác lập
luận đồng hóa dân chủ với thị trường, nhưng tôi sẽ phải làm điều đó. Lịch sử đã
chứng minh rằng chủ nghĩa tư bản không tạo ra dân chủ. Chính dân chủ mới tạo ra
chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản cần đến dân chủ. Điều đó đúng, nhưng không
nhất thiết chủ nghĩa tư bản biết cách tạo ra và duy trì dân chủ.
Huyền thoại thị trường, theo tôi, là một huyền thoại hiểm
độc nhất, bởi vì có quá nhiều người tin vào nó. Bởi vì cái cùm của thị trường
quá êm ái, và bởi vì ảnh hưởng của nó quá vô hình. Quá nhiều người tin rằng chỉ
cần thay đổi chủ nghĩa cộng sản cùng với nền kinh tế chỉ huy của nó bằng chủ
nghĩa tư bản và kinh tế thị trường là đủ để củng cố dân chủ. Nhưng tôi e rằng
người ta đã lầm lẫn tai hại giữa một bên là thị trường được điều tiết uyển
chuyển-phương tiện hữu hiệu nhất để gia tăng sản xuất và tích lũy tài sản, với
một bên là thị trường hoàn toàn tự do để người ta sản xuất và phân phối mọi thứ,
từ hàng hóa đến các giá trị tinh thần, từ sự phát triển tư bản đến công bằng xã
hội, từ lợi nhuận đến bảo vệ môi trường, và từ tài sản cá nhân đến tài sản
chung của đất nước.
Lập luận này khiến cho một số người yên chí rằng cứ giao các
chức năng công cộng như giáo dục, văn hóa, an sinh xã hội, môi trường, và công
ăn việc làm cho lãnh vực tư nhân của thị trường là xong cả. Nhưng thị trường
không phải được thiết lập ra để làm công việc của các định chế chính trị dân
chủ. Thị trường tạo ra một môi trường thảo luận tư để cho
chúng ta, những người tiêu thụ, cất lên tiếng nói bằng tiền bạc với những nhà
sản xuất hàng hóa; chứ không phải là một diễn đàn công cộng để chúng ta, những công dân, thảo luận
với nhau như một tập thể về những hệ quả xã hội phát xuất từ những chọn lựa
riêng tư trong thị trường. Thị trường gia tăng các mục tiêu cá nhân hơn là mục
tiêu xã hội và cho phép ta, từng người một, nói rằng: Tôi muốn có một đôi giày
Nike, hay một cái máy VCR, hay mua tiền Yen hoặc bán đồng đô-la. Nhưng thị
trường không cho phép ta nói một tiếng nói chung rằng khu vực nội-vi thành phố[2] cần có
một trung tâm thể thao mới, hay là có quá nhiều bạo lực trên truyền hình và
phim ảnh, hay chúng ta cần kiểm soát Ngân hàng Thế giới.
Thị trường không có chỗ cho “tư duy chung” hay “hành động
chung,” mà đặt hy vọng vào sức mạnh do nhiều lựa chọn cá nhân kết hợp lại, sẽ
một cách nào đó, mang lại lợi ích chung. Người tiêu thụ sử dụng ngôn ngữ “tôi,”
trong khi công dân dùng ngôn ngữ chung “chúng ta.” Thị trường mang tính chất
giao kèo giữa cá nhân hơn là tập thể khiến cho tự ái cá nhân được thỏa mãn,
nhưng không thỏa mãn được khát vọng tập thể. Thị trường mang lại cho ta những
sản phẩm bền chắc và những mơ ước phù du, nhưng không đem lại cho ta được một
căn cước chung của những thành viên trong một cộng đồng. Và điều này tạo cơ hội
cho sự thành hình những mô hình tập thể phi-dân chủ như ở các bộ tộc dã man.
Là những công dân, chúng ta đối phó như thế nào đối với những
sự sai trái dù không cố ý do thị trường quốc gia cũng như toàn cầu gây nên?
Liệu ta có thể tạo nên được cái “chúng ta” liên-quốc gia từ những “cái tôi”
tham lam của người tiêu dùng không? Thị trường cung cấp cho ta sản phẩm, nhưng
không cung cấp cho ta đời sống mà ta muốn; nó tạo phồn vinh cho một số người,
nhưng cũng gây khốn nạn cho những người khác, và làm mất hết lòng tự trọng ngay
cả đối với những kẻ giàu có. Năm trăm đại công ty đa- quốc gia đứng hàng đầu
thế giới có ảnh hưởng hơn không những hai mươi lăm ngàn NGO, mà còn hơn cả gần
200 quốc gia trên thế giới, và càng ngày những công ty này, chứ không phải các
quốc gia, càng có nhiều quyết định ảnh hưởng đến tương lai của toàn nhân loại.
Những công ty này cần có những tổ chức dân chủ của công dân để tồn tại và hoạt
động, nhưng họ không biết làm thế nào để sản xuất ra những tổ chức này.
Đó chính là nghịch lý của thị trường. Nó không thể tồn tại
trong một thế giới [đầy dẫy những cạnh tranh] mà chẳng chóng thì chày nó cũng
tạo ra, nếu nó không được điều tiết bởi các lực lượng dân chủ và công dân, mà
chẳng chóng thì chày những lực lượng này cũng bị nó làm cho suy yếu. Những hệ
quả thảm khốc xảy ra từ việc áp dụng các mô hình chính trị theo khuôn mẫu lý
thuyết kinh tế vĩ mô đã quá hiển nhiên tại những nước từ Nga tới châu Mỹ La
tinh và Phi châu, nơi O’Donnell, một khoa học gia về chính trị đã nói: “Khi
không gian tư phát triển, thì không gian công sẽ sụp đổ.” Và ông kết luận một
cách đơn giản và khẳng quyết rằng tư nhân hóa không phải là dân
chủ hóa. Như vậy, không những ta cần phải tiến xa hơn cái mô hình
dân chủ của thị trường, mà thị trường cũng cần phải có các lực dân chủ để điều
chỉnh nó thì nó mới tồn tại được. Thị trường, tự nó sẽ không tạo ra dân chủ. Để
bảo đảm công ăn việc làm, y tế công cộng, an sinh xã hội, giáo dục, văn hóa đa
dạng và cạnh tranh thực sự, thị trường rồi sẽ bị sét rỉ, bào mòn dần đi, không
phải vì ác ý, nhưng vì người ta thờ ơ và quan tâm đến những điều khác. Chủ
nghĩa tư bản cần tất cả những điều này, nhưng tự nó không sản xuất ra được.
Và ở đây có một điều nguy hiểm, nhất là tại những xã hội cựu
cộng sản. Song song với sức quyến rũ của thị trường và tư nhân hóa đang xảy ra
tại những nước này, nỗi sợ về sự độc tài chuyên chính của chính quyền [trong
quá khứ] dẫn đến nỗi sợ về tất cả những sự can thiệp của chính quyền và sợ luôn
cả chính quyền dân chủ. Tôi đã thấy người dân tại các nước Đông Âu và Xô-viết
rất ngại ngùng khi nói đến cộng đồng hay sự đoàn kết của công dân. Tôi cũng
hiểu rằng chương trình công dân giáo dục có thể làm cho họ nhớ lại chuyện bị
nhồi sọ hay một hình thức tuyên truyền mới của nhà nước. Nhưng nếu họ nghĩ rằng
cứ để những điều cần thiết vừa nêu cho thị trường và để cho thị trường làm
những việc mà chính quyền dân chủ phải làm, thì đó lại là một thứ huyền thoại đáng
ghê sợ.
Thế thì chúng ta phải làm gì nếu dân chủ không phải là vay
mượn hay được tạo mẫu bằng một vài cải cách chính trị hay tư nhân hóa? Có phải
ta cần có những anh hùng để mang lại cho ta tự do hay không? Đến đây là huyền
thoại cuối cùng tôi muốn trình bày với quý vị. Tôi nghĩ, và tôi tin là rất
nhiều quý vị cũng chia sẻ niềm tin này như tôi, là phẩm chất của một nền dân
chủ không do phẩm chất của nhà lãnh đạo tạo nên mà do chính phẩm chất của công
dân. Chỉ có những chế độ Phát-xít, cộng sản và độc tài mới cần có các lãnh tụ
vĩ đại để tồn tại.
Các chế độ này chẳng có gì hơn là các nhà lãnh đạo của họ.
Họ chỉ có thế thôi. Dân chủ cần có những công dân hữu hiệu, những người dân
nam, nữ bình thường làm những việc phi thường một cách liên tục và đều đặn. Trong
vở kịch Galileo của Bertolt Brecht, có một màn trác tuyệt, khi một nhân vật nói
với một nhân vật khác: “Thương thay cho một nước không có anh hùng.” Và nhân
vật kia trả lời: “Không, thương thay cho một nước cần có những anh hùng.” Dân
chủ là một hình thức chính quyền không cần có anh hùng, và một quốc gia có nền
dân chủ thành công không cần có anh hùng. Năm 1890, trong một cuộc họp của đảng
Nhân dân[3] sau khi
đảng này bị thất cử vì kế hoạch kinh tế của họ không thu hút được sự ủng hộ của
đa số trong xã hội, một đảng viên đã nói với Eugene Debs, lãnh tụ của đảng, như
sau: “Thưa lãnh tụ, người phải lãnh đạo chúng tôi và đưa chúng tôi ra khỏi tình
trạng tối tăm này.” Eugene Debs đã trả lời: “Tôi sẽ không làm điều này. Tôi
không thể làm được. Và nếu có làm được, tôi cũng không làm. Vì nếu tôi có thể
đưa các bạn thoát ra cảnh tối tăm này, thì chính tôi cũng có thể đưa các bạn
vào trở lại.” Tại vô số các nền dân chủ mới, tôi thấy bóng ma của nhân dân nam
nữ được các anh hùng dẫn ra khỏi bóng tối của chủ nghĩa cộng sản, rồi sau đó
thất vọng, lại bị dẫn vào trở lại trong sự tối tăm của chủ nghĩa quốc gia bởi
chính những anh hùng đó. Chúng ta cần những xã hội được miễn nhiễm đối với chủ
nghĩa anh hùng loại đó, những xã hội mà công dân chính là người lãnh đạo của
chính họ, và làm những việc cần làm một cách bình thường mỗi ngày.
Công việc xây dựng dân chủ, nói cách khác, là công việc của
chính chúng ta, những việc khó khăn, đời thường, và không bao giờ chấm dứt của
giáo dục công dân; công việc của những tổ chức phi-chính phủ đang cố gắng xây
dựng nên một xã hội dân sự liên-quốc gia.
Và tôi sẽ bắt đầu bằng cách đặt tên lại cho những tổ chức
phi-chính phủ. Tổ chức phi-chính phủ, cái tên nghe ghê rợn xiết bao. Không thể
nào có điều gì tốt phát xuất từ những thực thể được định nghĩa bằng phủ định.
Chắc chắn là những tổ chức này phải hơn hẳn những cái gọi là “phi-chính phủ”
chứ. Đó là những tổ chức công.[4] Đó là
những tổ chức phi-thương mại, phi-tổ hợp, và hoàn toàn tự nguyện. Những tổ chức
này phi-tư nhân, hiểu theo nghĩa đó là của riêng của cá nhân, và phi-nhà nước
nhưng không mất đi quan tâm chung về công bằng và phúc lợi công cộng. Những tổ
chức này là sức mạnh vĩ đại của chúng ta, tôi tin như vậy. Nhưng những tổ chức
này không nên được gọi là “phi-chính phủ” mà phải gọi là những tổ chức “của
công dân” (pro-civic). Hãy gọi đó là những “tổ chức công dân” hay “hiệp hội dân
sự,” những tổ chức đứng giữa một bên là chính quyền đã trương phồng quá mức và
một bên là các công ty tư nhân cũng trương phình quá mức. Những tổ chức dân sự
này xác định một lãnh vực quan yếu, nơi mà tự do được nuôi dưỡng và phát triển.
Lãnh vực này là của chúng ta. Nó thuộc về chúng ta. Không
gian dân sự là không gian của chúng ta. Nhưng đối với phần đông, ngày nay,
không gian này chỉ hiện hữu trong sự tưởng tượng. Trong thực tế, ta có những
khu thương xá, rạp hát, và cơ quan hành chánh, nhưng có rất ít không gian dân
sự như cái không gian chúng ta vừa tạo ra tại đây trong mấy ngày qua. Tôi không
biết chắc mô hình tương lai của xã hội dân sự sẽ như thế nào, dù đề tài của
buổi hội thảo này là “Tương lai của xã hội dân sự.” Tôi khá là bi quan, như quý
vị đã thấy, một phần vì những huyền thoại tôi vừa trình bày đã được phát tán
quá rộng, quá mạnh và quá độc hại. Tôi chỉ biết rằng nếu không có một xã hội
dân sự khỏe mạnh, thì sẽ không có những công dân, mà chỉ có những người tiêu
dùng hay thần dân của những nhà nước bạo ngược. Và nếu không có công dân, thì
cũng sẽ không có dân chủ. Có một tin mừng là chúng ta còn có một sự lựa chọn.
Các nhà giáo dục, các nhà tổ chức cộng đồng, các tổ chức NGO hiện diện trong
phòng này, và tất cả các bạn ở mọi nơi, chúng ta có thể thay đổi tình hình.
Nhưng công việc này thì khó khăn, chướng ngại vật thì lại nhiều vô kể, và những
huyền thoại vẫn còn đang lan truyền khắp chốn. Khoảng hai trăm, hay hai trăm
năm chục năm trước, trước cả khi xảy ra Cách mạng Pháp rất lâu, Jean Jacques
Rousseau đã nói: “Tự do là một loại thực phẩm dễ ăn, nhưng khó tiêu.” Nếu ta
không cẩn thận, ở New York và Washington, cũng như ở Prague, Moscow, London,
Paris, và ở Ethiopia hay Singapore, thì có thể chúng ta trong thế kỷ tới sẽ tạo
ra những xã hội không những không có tự do, mà còn vĩnh viễn mang chứng khó
tiêu.
Cám ơn quý vị đã theo dõi.
© Học Viện Công Dân 2009
Nguồn: http://civnet.org/civitas/barber.htm [1]
“Benjamin Barber deflates the four myths of democracy.”
Journal: Civnet’s Journal For Civil Society. Vol. 1, No. 1 (May 1997)
[1] James
Madison, một trong những “quốc phụ” của Mỹ. Ông là tác giả chính của mô hình
chính quyền liên bang và hiến pháp của Mỹ tại Quốc hội Lập hiến năm 1787 tại
Pennsylvania, và là tác giả của Đạo luật Dân quyền (Bill of Rights). Ông cũng
là tổng thống đời thứ tư của Mỹ.
[2]Các khu vực
nội-vi thành phố (inner city) tại các thành phố lớn ở Mỹ thường là những khu
nhà lụp xụp, nghèo nàn và nhiều tội ác.
[3] Đảng
Nhân dân được thành lập năm 1892 tại Mỹ, phát xuất từ phong trào do nông dân
khởi xướng, chống lại tiến trình công nghiệp hóa đang diễn ra. Đảng này ra
tranh cử tổng thống nhiều lần, nhưng không thành công.
[4] Khái
niệm “công” (public) còn khá mới với độc giả VN. Khi nói đến “của công,” ta
thường nghĩ ngay đến những gì của nhà nước, như trường công, nhà thương công.
Tại Mỹ và Tây Âu, xã hội dân sự được quan niệm có 3 lãnh vực: tư nhân, chính
quyền, và lãnh vực công. Lãnh vực công là lãnh vực của chung tất cả mọi người,
không thuộc tư nhân cũng như chính quyền. Thí dụ như những đài phát thanh hay
phát hình công (public radio, television) tại Mỹ có ngân sách hoạt động
hoàn toàn do tư nhân đóng góp và hoạt động theo tôn chỉ và mục đích do một Ban
quản trị hoạt động độc lập, không chịu sự chi phối về đường lối của bất cứ ai,
kể cả chính quyền. Dĩ nhiên, những tổ chức công này phải tuân theo luật về tổ
chức và tài chánh của nhà nước, nhưng chỉ như vậy mà thôi.
2 comments:
Aidan Gardiner, sinh viên Trường đại học New tại New York, đứng trong nhà sách Barnes&Noble ở quảng trường Thống Nhất, thành phố New York đang xem cuốn Đêm qua tôi mơ thấy hòa bình được trưng bày trên chiếc bàn giới thiệu sách mới đặt trước cửa nhà sách - Ảnh và chú thích: Neil Alexander - gửi riêng cho Tuổi Trẻ
* Báo chí Mỹ đã quan tâm đến việc phát hành cuốn sách này như thế nào? họ thừa hiểu có bàn tay ma mảnh lợi dụng chiêu bài hoà bình yên ổn nhằm ru ngủ nước mỹ và toàn thế giới trướcĐẠI HOÀ CỘNG SẢN để chúng rảnh tay mà yên tâm hành động ngấm ngầm núp bong bọn ma fia tấn công vào lục phủ ngủ tạng của kẻ thù như một căn bệnh ung thư quái ác chúng di căn từ từ nếu không kịp thời phát hiện và chặn đứng kịp thời thì nước mỹ sẻ tát thở mà không biết vì nguyên do gì nên hiểu.. còn cộng sản thì thế giới không bao giờ có hoà bình tin cộng sản là tự sát nghe theo cộng sản là tự nộp mình vào miệng lang sói cọp beo có cộng sản thì không có tự do.. họ đã quá hiểu quá rành cộng sản và nhất là từ khi toàn bộ mẩu quốc cs quốc tế lien xô và các nước cộng sản đông âu lần lượt chui vào thùng phân lịch sử của nhân loại qua những lời tố cáo tội ác cộng sản của chính các lảnh tụ cs thì họ đã qú hiểu thừa hiểu cs là gì chúng là đại hoạ của nhân loại chúng mưu mô xảo quyệt gian trá không công khai tuyên chiến vì chúng không đủ sức nên hèn hạ dung thủ đoạn đê hèn núp bong ma fia phối hợp với bọn tay sai chư hầu cộng sản việt hàn cu ba âm thầm nhưng tàn khốc đánh sâu vào nội tình các nước tự dotrên toàn nhất là mỹ chúng dung c ác băng đảng ma fia bọn tội phạmgiăng bẩy câu mồi mua chuộc làm băng hoại mục ruổng từ từ bộ máy chính quyền của các nước sở tại lũng đoạn kinh tê xáo trộn chính trị làm m ất định hướng những gì tốt đẹp nhất của thế giới tự do hiện có ch úng dùng đàm đàn em trong lốt của các nhà chính trị kinh tế doanh nghiệp quan chức cao cấpnhà văn nhà báo ùng đủ mọi cách có thể để ru ngủ xoay chuyển nhận thức chính trị theo chiều hướng có lợi cho cộng sản v à ch úng đã và đang h ê ết s ư ức thành công trong âm mưu tàn độc này
- Chúng tôi chú trọng "lôi cuốn" sự chú ý của báo chí từ sớm. Nhà báo Seth Mydans của tờ New York Times đã gọi những ký ức của Thùy là "những cảm xúc đầy kịch tính như chính sự kịch tính của chiến tranh vậy". Tờ Kirkus Reviews viết: "Thúc bách và giản dị, xuyên thẳng vào trái tim người đọc", và một tờ tạp chí dành cho người Mỹ gốc Á,Audrey, viết: "Cuốn sách được sinh ra để trở thành một tác phẩm kinh điển" những tờ báo này một là ăn tiền cộng sản hai là tay sai trực tiếp của cộng sản như trên đã nói cộng sản lắm mưu nhiều kế kẻ ngu dốt nhất cũng thừa biết chúng cho xuất bản cuốn nhật ký này sử đổi cáitên có chủ ý đêm qua tôi mơ thấy hồa bình đúng tthời điểm đau thương tang tóc nhất của nước mỷ và trùng ngày thứ ba nhằm mưu đồ xảo quyệt đánh đúng vào tâm lý chung của con \người ghét chiến tranh yêu chuộng hoà bình nhằm kích động người dân chống đối lại việc chính phủ mỹ đưa quân ra trấn thuơr nước ngoài tăng them ngân sách quốc phòng vv…dù vẩn biết đó là sự bảo vệ an toàn cho nước mỹ và toàn thế giới trước hiểm hoạ cộng sản và họ vẩn biết cộng sản chính nó mới là đại hoạ cho nhân loại và chính cả nước mỷ không mhư khủng bố chỉ như một vài nụm ghẻ chẳng gây tác hại gì nhiều mặc dầu hình thức thấy ghê rợn và tàn nhẩn nhưng không nguy hại vói cộng sản thì lại khác chúng tự luợng sức nên chẳng dám công khai tấn công nên đành chịu mang tiếng đê hèn âm thầm núp bong ma fia đánh ngầm đánh lén cực kỳ nguy hiểm chỉ có những đầu óc ngu tối hay bị chúng bắt mất linh hồn mới không nhận ra * Sau ngày phát hành đầu tiên, bao nhiêu bản sách đã được bán ra, thưa ông?
- Nguyên tắc của công ty chúng tôi là không tiết lộ con số, tuy nhiên chúng tôi rất hài lòng với số lượng sách tại các cửa hàng, với hi vọng rằng sách sẽ tiếp tục được bán trong nhiều năm tới.v à có thể sẻ hết trong vài tỷ năm nửa
Tại sao mấy nhà xuất bản sách của thế giới tư bản thù ghét cộng sản lại yêu thích cuốn hồi ký viết trong lửa đạn đấu tranh chống giặc ngoại xâm của một nữ bác sỹ Đảng viên Đảng cộng sản VN thế nhỉ ? chỉ có bọn ma xó tay sai bán linh hồn cho ác quỷ mới đem thứ rác rưởi của cộng sản đi cùng thế giới trong mưu đồ chính trị vận nhìn sơ người ta cũng quá thừa hiểu ý đồ của chúng đúng là bọn ngu si tự dưng lạy ông tui ở bụi nầy mưu sâu thì hoạ càng sâu những mong ru ngủ thế giới bằn chiêu bài hoà bình ổn định để dể bề âm thầm đánh ngầm núp bong ma cô ma cạo ma xó làm chuyện thất nhơn ác đức hoà bình gì chúng mày miệng hô hoà bình tay phải chỉ bắc hàn mày chế tạo bom nguyên tử cho tao tay trái chỉ việt nam mày cho đàm ma xó ma fia cùng với bọn gà mong đỏ của tao ăn sâu luốn sâu gậm nhấm ăn mòn ăn lần cho hết lục phủ ngủ tạng của thằng mỹ cho tao quay sang cu ba mày có nghiệm vụ canh canh chừng theo dỏi thằng mỹ bằng công nghệ tao mới chôm đượccủa thằng mỹ cho tao -Tất nhiên với nhúm chốngthế giới tự do cực đoan sẽ cho rằng đây là hành động kinh doanh đơn thuần. Vẫn biết tư bản là lợi nhuận. Nhưng chúng minh cho thế giới thấy sức lừa mị ,lấy sự dối trá và láo khoét để thu phục lòng người rất mãnh liệt mà xảo trá qua tấm gương lợi dụng chiêu bài ổn định hoà bình của những người cộng sản là như thế nào , tinh thần tự nguyện chiến đấu hy sinh thân mình và tuổi trẻ cho lý tưởng của đảng cộng sản quốc tế quan thầy mao mác lê cho sự nghiệp giải phóng thế giới , chống giặc tự do dân chủ toàn cầu để thống nhất thế giới tiến vào thế giới đại đồng , mà Đặng thuỳ Trâm là một nhân chứng sống động sống chết cho tà thuyết cộng sản , người thật việc thật do chính những tên cộng sản nước ngoài thu nhặt được.
-Còn lũ cộng sản việt nam thì saon thì sao ? lý tưởng của chúng hoàn toàn là những đồng tiền bẩn thỉu đánh thuê cho nhũng ông trùm cộng sản trung cộng , ôm chân tàu liếm gót giầy nga tàn phá giết hại người dân và quê hương Việt nam. Ở chúng chỉ duy nhất có tấm gương anh dũng đứng nhìn tàu cộng chiếm đất biên giới chiếm biển đảo hoàng sa trường sa tự nhiên như người hà nội đứng nhìn tàu cộng xây dựng thanh phố tam sa vững chắc muôn đời để mong toàn mạng cẩu tài nô lệ ngoại xâm, không những thế chúng còn lấy đầu đội đít tôn thờ quan thầy mao mác lê THỜ MAO CHỦ tịch thờ stalin bất diệt đánh giết bát tù đầy đày đoà những người yêu nước yêu tự do mong muồn quyền làm người được thực thi trên quê hương việt nam muôn đời dấu yêu
Đăng nhận xét