Nguyễn Quang Duy
ĐIỀU 4:
KHÔNG AI BỊ CƯỠNG BỨC LÀM NÔ LỆ HAY TÔI ĐÒI.
Ngày
10-12-1948, Liên Hiệp Quốc long trọng công bố Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền làm
khuôn mẫu chung cho mọi quốc gia về quyền làm người. Từ đó, Bản Tuyên Ngôn đã
đóng một vai trò tích cực xây dựng nền văn minh, tự do, dân chủ cho tòan nhân
lọai.
Nhưng Điều
4 của Bản Tuyên Ngôn “Không ai bị cưỡng bức làm nô lệ hay tôi đòi.” xét
ra vẫn chưa được tích cực. Nhân ngày Quốc Tế Nhân Quyền bài viết này xin phân
tích về tình trạng “tự nguyện” nô lệ vẫn còn khá phổ biến, nhất là tại các quốc
gia độc tài cộng sản.
“Tự nguyện”
nô lệ
Cuối tháng
11-2013, dư luận xôn xao về việc ba phụ nữ tự nguyện giam mình trên 30 năm
trong một căn nhà ở phía Nam
thành phố London.
Họ thuộc một “chi bộ” cộng sản theo đường lối Mao và do hai đảng viên ông
Aravindan Balakrishnan (73 tuổi) và vợ, bà Chanda (67 tuổi) cầm đầu. Họ
tự nguyện chung sống, kiểm sóat lẫn nhau, trung thành và chịu phục tùng
mệnh lệnh
của đồng chí Balakrishnan.
của đồng chí Balakrishnan.
Điều cần
biết là họ đang sống ở xứ Anh, một nơi mà quyền làm người được tôn trọng vào
bậc nhất. Cũng như các thành viên một số tà phái, họ “tự nguyện” hay đã bị tẩy
não để trở thành những nô lệ trong một tập thể khép kín.
Tại các
quốc gia văn minh việc tẩy não bị luật pháp chặt chẽ kiểm sóat và khi được phát
hiện nạn nhân được tận tình giúp đỡ. Ngược lại chế độ Cộng Sản vẫn sử dụng các
kỹ thuật tẩy não để xây dựng và duy trì độc quyền thống trị xã hội.
Tẩy Não
Tẩy não là
một phương cách kiểm soát tư tưởng, làm thay đổi nhận thức, niềm tin và bản
tính của cá nhân hay của cả tập thể.
Theo nhà
xã hội học Albert D. Biderman có 8 biện pháp để tẩy não con người. Tám biện
pháp này đã được tác giả Trần Trung Đạo nêu ra trong bài “Bàn về Tẩy Não”:
Thứ nhứt
cô lập, tước đọat quyền sống và làm cho nạn nhân hòan tòan phụ thuộc vào kẻ tẩy
não;
Thứ hai,
độc quyền hóa mọi khả năng nhận thức, buộc nạn nhân phải tập trung chú ý vào
mối quan hệ với kẻ tẩy não;
Thứ ba làm
suy yếu tinh thần đối kháng cũng như làm kiệt quệ thể lực nạn nhân;
Thứ tư là
đe dọa, trồng cấy sự lo lắng, bất an và tuyệt vọng vào ý thức của nạn nhân;
Thứ năm là
ban đặc ân để khuyến dụ sự tuân hành;
Thứ sáu
tạo cho nạn nhân cảm tưởng chống đối chỉ là hành động vô ích;
Thứ bảy là
phát triển một thói quen tuân phục;
Và cuối
cùng là chứng tỏ việc phản kháng chỉ làm thiệt hại cho lòng tự trọng hơn là
việc đầu hàng có điều kiện.
Thử xem 8
biện pháp nói trên khi áp dụng vào Việt Nam có kết quả thế nào để từ đó
chúng ta có thể vạch ra những công việc cần làm.
“Giải Phóng”
miền Nam
Sau
30-4-1975, cả miền Nam
được đưa vào lò tẩy não. Quyền sống của người dân bị tước đọat và bị kiểm sóat
chặt chẽ. Ban ngày mọi người phải làm việc quần quật kiếm sống, tối học tập,
hội họp, kiểm điểm, kiểm thảo, phê và tự phê. Cuối tuần lại lao động xã hội chủ
nghĩa.
Sáng tiếng
loa phường đánh thức, chỗ làm loa tuyên truyền rả rích, tối về lại loa phường.
Người dân không còn chút thời giờ nghỉ ngơi, không một khỏang trống tự do để
suy nghĩ.
Mọi phương
tiện truyền thanh, truyền hình, phim ảnh, bích chương, sách báo được sử dụng
tối đa cho tuyên truyền chiến thắng, cho bạo lực cách mạng, cho huyền thọai
lãnh đạo, cho thành quả xây dựng xã hội chủ nghĩa của các nước đàn anh,… mọi
thứ được lập đi lập lại cho đến khi nhập vào tiềm thức của nạn nhân.
Cuộc sống
thì căng thẳng với những cuộc khám xét, bắt bớ, các tòa án nhân dân, các cuộc
tử hình công khai, đánh tư sản mại bản, chống văn hóa phản động, … bạo lực bao
trùm và đe dọa đời sống cả miền Nam.
Những
người bị khép vào thành phần nguy hiểm: sĩ quan, công chức, lãnh đạo tôn giáo,
chính trị, xã hội được đưa vào trại cải tạo. Cải tạo đồng nghĩa với tẩy não. Ở
đó cuộc sống và điều kiện sinh họat thật khắt khe, tiêu diệt mọi ý chí và tẩy
não con người một cách triệt để hơn. Trong bài viết ngắn khó có thể diễn tả
được tình hình khi ấy.
Bằng các
biện pháp nói trên, khi đảng Cộng sản đã kiểm sóat đựơc tinh thần của người
dân, thì cả một xã hội xem như tự nguyện trung thành và làm theo mệnh lệnh một
cách máy móc không cần suy nghĩ. Tòan xã hội trở thành một guồng máy phụ thuộc
vào những nghị quyết từ Bộ chính trị đề ra.
Khi đảng
Cộng sản cướp được chính quyền năm 1945 và khi họ tiếp thu miền Bắc 1954 các
biện pháp tẩy não cũng đã được thực hiện tại các vùng họ “giải phóng”. Và cho
đến nay các sách lược tẩy não xã hội vẫn được đảng Cộng sản tiếp tục sử dụng
tại các vùng đang chiếm đóng mặc dầu không còn hiệu quả như trước đây.
Diễn Biến
Hòa Bình
Thế nhưng
miền Nam
trước 1975 xã hội xây dựng dựa trên nền tảng tự do dân chủ, các khái niệm về
quyền làm người đã trở nên phổ quát. Vì thế guồng máy nhập cảng từ Nga Tàu được
vận hành khá hiệu quả tại miền Bắc đã gặp không ít trở ngại. Những chống đối
ngấm ngầm, bất tuân dân sự, bất cộng tác và bỏ nước ra đi là diễn biến buộc
đảng Cộng sản phải liên tục thay đổi sách lược.
Chính thời
điểm 30-4-1975, những người từ miền Bắc vào, những người từ trong vùng “giải
phóng” chứng kiến cuộc sống tại miền Nam đã bắt đầu xét lại. Vì thế không phải
chỉ những người thua trận, cả những người chiến thắng cũng tiếp tục bị đảng
Cộng sản tẩy não.
Những thực
tế cuộc sống trái ngược với luận điệu tuyên truyền làm thức tỉnh một số người
trước đây xem chủ nghĩa cộng sản như một lý tưởng để họ đeo đuổi.
Rồi chế độ
cộng sản tại Liên Xô sụp đổ. Chỗ dựa tư tưởng của đảng Cộng sản Việt Nam cũng tan
theo mây khói. Buộc họ phải thay đổi phải cởi trói kinh tế. Nhưng thay đổi nửa
vời lại đi vào vòng bế tắc. Nhờ thế ngày càng nhiều người bên trong guồng máy
cộng sản nhận ra sự thật và tìm cách thay đổi từ bên trong.
Hậu Quả
và Phương Cách Tháo Gỡ
Điều đáng
tiếc là hầu hết những người bên trong guồng máy cộng sản vẫn lấn cấn với những
điều đã in sâu vào tiềm thức của họ. Họ vẫn chỉ đòi dân chủ trong đảng, họ vẫn
chưa nhận thức được đất nước cần đa đảng đối lập và dân chủ cho tòan dân. Họ
vẫn suy nghĩ ảnh hưởng ý thức hệ Marx Lenin thay vì suy nghĩ theo ý thức hệ tự
do dân chủ.
Phía người
dân sự sợ hãi vẫn còn. Rồi sự bưng bít thông tin khiến đa số người dân vẫn chưa
hiểu được những quyền tự do căn bản đương nhiên họ phải có. Những điều mà chính
nhà cầm quyền cộng sản cũng đã cam kết với thế giới sẽ trao trả cho người dân.
Ngày
12-11-2013, lần đầu tiên Việt Nam có ghế trong Hội đồng Nhân quyền Liên
Hiệp Quốc. Phó Thủ Tướng kiêm Ngoại trưởng Phạm Bình Minh hứa rằng sẽ "thực
hiện tốt các nghĩa vụ và cam kết của một quốc gia thành viên Hội đồng Nhân
quyền và thành viên Liên Hiệp Quốc". Khó có thể tin vào lời hứa hẹn
nói trên, điều chúng ta có thể làm là một mặt thúc đẩy họ phải thực hiện các
cam kết quốc tế, nếu họ không thực hiện chúng ta có bằng chứng để tố cáo họ
trước công luận.
Nhân Ngày
quốc tế loại bỏ bạo lực đối với phụ nữ 25-11-2013, một nhóm phụ nữ ra mắt một tổ
chức dân sự lấy tên là Phụ Nữ Nhân Quyền Việt Nam với tôn chỉ nhằm “… nâng
cao nhận thức của từng cá nhân trong xã hội về phẩm giá con người và những quyền
con người cơ bản của chính mình cũng như của người khác, từ đó góp phần thúc
đẩy một xã hội tôn trọng nhân quyền…”
Sang ngày
26-11-2013 một nhóm 40 người đồng ký tên trên một kiến nghị kêu gọi tổ chức
một hội đồng nhằm thúc đẩy nhân quyền cho Việt Nam.
Các thông
tin mạng cho thấy ngày 10-12-2013 các tôn giáo sẽ tổ chức những buổi lễ cầu
nguyện, các anh chị em trẻ sẽ tổ chức những buổi dã ngọan nhân quyền phổ biến
Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và tạo sự quan tâm đến quyền làm người tại
Việt Nam.
Các thành
phố đông người Việt sinh sống đều tổ chức những sinh họat khác nhau tạo quan
tâm về nhân quyền, tự do dân chủ cho Việt Nam. Tại Melbourne tiểu bang
Victoria sáng thứ ba 10-12-2013 một cuộc Đồng Hành Nhân Quyền bắt đâu lúc 10
giờ sáng trước QUỐC HỘI TIỂU BANG đi bộ vòng quanh thành phố Melbourne để hướng
về CÔNG VIÊN DOCKLANDS.
Nói tóm
lại Bản Tuyên Ngôn chỉ là một mẫu mực chung và vẫn còn những điều khỏan như
điều 4 chưa tích cực giải phóng con người thóat khỏi vòng nô lệ tinh thần.
Trường hợp
Việt Nam
người dân vẫn còn bị đảng Cộng sản kiểm sóat chặt chẽ rất ít người biết hay
quan tâm đến quyền làm người. Vì vậy việc trước tiên chúng ta cần tạo sự quan
tâm, phổ biến và giáo dục người dân về những quyền tự do căn bản, những quyền
mà người dân đương nhiên phải có, những quyền mà nhà cầm quyền cộng sản đã cam
kết với thế giới phải trao trả cho dân tộc Việt Nam.
Nguyễn
Quang Duy
Melbourne, Úc Đại Lợi
4-12-2013
0 comments:
Đăng nhận xét