Trần Văn Huỳnh
Kính gửi: BĐH
Diễn Đàn CTM
Ngày 26-3 tại Hà Nội, trong cuộc hội thảo “Khởi tạo động lực tăng trưởng mới”
do trường Đại học kinh tế Quốc dân, và Viện Nghiên cứu chính sách quốc gia Nhật
Bản, Giáo sư Kenichi Ohno đã khẳng định: “Ngày nay, sau một vài năm đạt mức thu
nhập trung bình thấp, bẫy thu nhập trung bình không còn là một nguy cơ xa xôi,
mà đã trở thành thực tế ở Việt Nam”.
Và chuyến đi Nhật của Chủ tịch nước vừa qua là bằng chứng
cho thấy Việt Nam
đã rơi vào bẫy Thu nhập Trung bình.
Điều làm tôi đau buồn và chua xót hơn nữa là sự kiện này làm
tôi nghĩ nhiều về Thức. Con trai tôi đã lên tiếng cảnh báo về những nguy cơ này
từ những năm 2006 và đã liên tục nhắc lại nhiều lần tại phiên toà, trong đơn
kháng cáo. Giờ thì nguy cơ đã trở thành hiện thực,
Trải qua gần 5 năm kể từ khi con tôi bị kết án đến nay, tôi
không ngừng gửi đơn kêu oan và đơn đề nghị Giám đốc thẩm đến các cơ quan có
thẩm quyền. Nhưng chỉ nhận được sự hồi đáp không thoả đáng và vô căn cứ.
Nay tôi gửi đến BĐH Diễn Đàn CTM nhờ phổ biến với mong muốn
quý độc giả ủng hộ và kêu gọi các cơ quan chính quyền có trách nhiệm ban hành
Kháng nghị Giám đốc thẩm để trả lại sự công bằng cho Trần Huỳnh Duy Thức.
Tôi tin rằng lẽ phải cuối cùng sẽ chiến thắng và con tôi sẽ được tự do.
Xin chân thành cám ơn BĐH Diễn Đàn CTM đã hỗ trợ quảng bá.
Trần Văn Huỳnh.
PS: Đính kèm là công văn trả lời của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao 4290/VKSTC-V3
v/v trả lời thư khiếu nại - ngày 28/11/2013.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
*********
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
*********
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 31 tháng 01 năm 2014
Kính gửi:
|
-
Viện Trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao
-
Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao
- Vụ 3 thuộc Viện Kiểm sát Nhân
dân Tối cao
|
Đồng kính gửi:
|
-
Chủ tịch Nước
-
Chủ tịch Quốc hội và quý Đại biểu Quốc hội
-
Thủ Tướng chính phủ
-
Trưởng ban nội chính trung ương
|
Về việc:
|
Yêu cầu giám đốc thẩm
cho Trần Huỳnh Duy Thức
|
Tôi tên Trần Văn Huỳnh, sinh ngày 29/11/1937, nguyên là giáo
viên Anh văn thuộc Sở Giáo dục TP. HCM, được chuyển về Sở Văn hóa Thông tin
TP.HCM công tác tại Phòng Văn hóa Đối ngoại từ năm 1989 đến năm 2001 nghỉ hưu, hộ
khẩu thường trú tại số 362/532C đường Trường Chinh, Phường 13, Quận Tân Bình,
hiện ngụ tại số 439F8 Phan văn Trị, Phường 5, Quận Gò Vấp, TP. Hồ Chí Minh.
Tôi gửi đơn này yêu cầu giám đốc thẩm đối với 2 bản án: Số
19/2010/HSST tuyên ngày 20/01/2010 tại phiên tòa sơ thẩm của Tòa án Nhân dân
TP.HCM (dưới đây gọi tắt là Bản án Sơ thẩm) và Số 254/2010/HSPT tuyên ngày
11/05/2010 tại phiên tòa phúc thẩm của Tòa án Nhân dân tối cao tại TP.HCM (dưới
đây gọi là Bản án Phúc thẩm) kết án con tôi – Trần Huỳnh Duy Thức (dưới đây gọi
là con tôi) – phạm tội Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân theo điều 79
Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS).
Đã trải qua gần 5 năm kể từ ngày con tôi bị bắt giữ và kết
án, tôi đã lần lượt gửi đơn kêu oan đến Chủ tịch nước (CTN) và Viện Kiểm soát
Nhân dân Tối cao (VKSNDTC) đề xin Giám Đốc thẩm vào các
lần:
· Đơn
kêu oan lần 1 ngày 5 tháng 4 năm 2011
· Đơn
kêu oan lần 2 ngày 4 tháng 5 năm 2011
· Đơn
kêu oan lần 3 ngày 20 tháng 6 năm 2011
· Đơn
đề nghị Giám đốc thẩm vào ngày 1 tháng 6 năm 2011.
· Đơn
kêu oan lần 4 ngày 19 tháng 6 năm 2013
Và tôi nhận được thông báo số 4290/VKSTC-V3 ngày 28
tháng 11 năm 2013 v/v trả lời đơn kêu oan lần 4 ngày 19 tháng 6 năm 2013 theo
công văn số 1065/VPCTN-PL ngày 15/08/2013 từ Văn Phòng Chủ tịch nước chuyển đơn
của tôi đến VKSNDTC.(Đính kèm)
Nội dung trả lời của VKSNDTC là việc làm tiếp tục thiếu
khách quan và không dựa vào pháp luật, mang tính chủ quan của cá nhân, né tránh
vấn đề và thể hiện sự thiếu tôn trọng luật pháp.
Những căn cứ trong thông báo nêu ra để nói rằng không có cơ
sở để giám đốc thẩm là hoàn toàn không dựa vào quy định của BLTTHS và điều 273
BLTTHS, mà chỉ nêu ra nhận định chủ quan.
Thông báo chỉ dựa vào hồ sơ (bút lục) tại cơ quan điều tra,
rồi đưa ra kết luận là: “Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm kết án Trần Huỳnh
Duy Thức về tội “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” là có căn cứ, đúng
pháp luật, không oan, không có căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm”.
VKSNDTC trả lời như vậy là không đúng vì BLTTHS qui định
việc xét xử phải dựa trên lời nói, bằng lời nói và những chứng cứ phải được xem
xét toàn diện đầy đủ tại tòa
Điều quan trọng là đã có nhiều những vi phạm nghiêm trọng
các thủ tục tố tụng trong quá trình điều tra và cả xét xử, do vậy những gì được
lưu trữ trong hồ sơ vụ án này bằng giấy tờ thì không thể đảm bảo tính khách
quan.
Thông báo trả lời này không được gửi đến văn phòng chủ tịch
nước là nơi chuyển đơn của tôi đến VKSNDTC và lại do 1 kiểm soát viên thừa ủy
quyền ký thông báo.
Theo qui định của điều 273 BLTTHS thì ngay cả khi bản án đã
có hiệu lực thì vẫn phải tiến hành Giám Đốc Thẩm bản án nếu xét thấy có một
trong những lý do nêu sau đây:
1. Việc điều tra xét hỏi tại phiên tòa phiến diện hoặc
không đầy đủ;
2. Kết luận trong bản án hoặc quyết định không phù hợp
với những tình tiết khách quan của vụ án;
3. Có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong khi
điều tra, truy tố hoặc xét xử;
4. Có những sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng Bộ
luật hình sự.
Tôi xin làm rõ các lý do này như sau:
1.
Việc điều tra xét hỏi tại phiên tòa phiến diện hoặc không đầy đủ :
thông qua diễn tiến phiên toà cho thấy việc điều tra xét hỏi tại toà không được
tôn trọng.
a.
Luật sư không được và có cơ hội biện hộ cho bị cáo.
Cả 2 phiên tòa Sơ thẩm và Phúc thẩm
đã không tuân thủ các qui định của pháp luật về tố tụng hình sự, có sự không vô
tư của chủ tọa phiên tòa và một số thành viên của Hội đồng Xét xử (HĐXX) nên nó
đã không đảm bảo được quyền bình đẳng trước tòa án giữa các bị cáo, người bào
chữa với các kiểm sát viên như yêu cầu tại Điều 19 của BLTTHS trong việc đưa ra
chứng cứ tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước tòa án.
Do vậy phiên tòa này đã không thể xem xét tất cả các tình tiết của vụ án để có
thể xác định được sự thật của nó một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm
rõ những chứng cứ xác định có tội và những chứng cứ xác định vô tội như yêu cầu
tại Điều 10 và Điều 66 của BLTTHS. Tại phiên tòa, con tôi cùng các bị cáo khác
và cả những luật sư bào chữa đã liên tục bị ngắt lời khi phát biểu, trả lời xét
hỏi và tranh luận dù rằng tất cả các ý kiến đều liên quan đến vụ án; thời gian
tranh luận đã bị hạn chế; cả lời nói cuối cùng của bị cáo cũng bị cắt. Những
điều này đã làm cho phiên tòa không đảm bảo được tính pháp lý cần có theo luật định.
b.
Các bằng chứng bảo vệ cho bị cáo cũng không được xem xét tại toà.
Trong quá trình điều tra có yêu cầu
cơ quan điều tra in ra các tài liệu là chứng cứ xác định vô tội đối với con tôi
trong các hộp thư điện tử bị thu giữ tài khoản và mật khẩu nhưng không được đáp
ứng. Tại phiên tòa Phúc thẩm con tôi đã trình bày vấn đề này trước HĐXX, đồng
thời yêu cầu được đưa ra những chứng cứ xác định vô tội mà con tôi có được.
Nhưng HĐXX phúc thẩm đã hoàn toàn không để ý đến yêu cầu này, và cũng không trả
lời yêu cầu chính đáng được pháp luật bảo vệ của con tôi.
Đây rõ ràng không chỉ là việc không
đảm bảo các thủ tục tố tụng mà còn dẫn đến chứng cứ của vụ án bị sai lệch,
không đầy đủ và thiếu khách quan.
c.
Không có giám định khách quan và tranh luận cho việc tìm ra sự thật để
có thể có được kết luận đúng đắn.
Một loại chứng cứ khác mà các cơ
quan tiến hành tố tụng sử dụng để kết tội con tôi là kết quả giám định về văn
hóa đối với nội dung các tài liệu mà con tôi làm ra. Trong đơn kháng cáo con
tôi cho rằng kết quả giám định này không đảm bảo pháp luật và đề nghị HĐXX phúc
thẩm yêu cầu người giám định ra tranh luận tại tòa. Nhưng yêu cầu này cũng
không được đáp ứng mà cũng không hề giải thích lý do.
2.
Kết luận trong bản án hoặc quyết định không phù hợp với những tình
tiết khách quan của vụ án:
a.
Tùy tiện thay đổi đối tượng khách thể của Điều 79 BLTTHS: Tôi muốn nói
đến đối tượng của điều luật. Xem xét vấn đề dưới góc độ khoa học, những lập luận
mà các bản án đưa ra hoàn toàn không đảm bảo tính biện chứng. Mà những vấn đề
biện chứng là cơ sở khoa học căn bản cho việc xây dựng luật pháp của Việt Nam. Vì không
đảm bảo tính biện chứng khoa học nên các bản án, cáo trạng và cả kết luận điều
tra đã tạo ra những mâu thuẫn, rất vô lý và phi thực tế.
b.
Không đảm bảo tính khoa học trong việc chứng minh tội phạm: Việc thay
đổi tùy tiện đối tượng khách thể của Điều 79 BLTTHS còn tạo ra sự bế tắc khi xem
xét vấn đề dưới góc độ khoa học luật về tội phạm. Quan hệ biện chứng của diễn
biến tội phạm phải là: từ mục đích phạm tội hình thành nên hành vi phạm tội;
hành vi này được thực hiện sẽ gây ra hậu quả phạm tội. Phải có hậu quả hoặc hậu
quả có thể xảy ra nếu hành vi được thực hiện đầy đủ (trong trường hợp phạm tội
chưa đạt) thì mới hình thành nên tội phạm. Đây là điều bắt buộc trong quan hệ
biện chứng một cách khoa học. Trong vụ án này, các việc làm của những bị cáo
nhằm thay đổi các vấn đề do Hiến pháp qui định đã bị qui kết thành những hành
vi phạm tội bằng cách thay đổi mục đích phạm tội theo đúng Điều 79 BLTTHS qui
định: từ “nhằm lật đổ một chính quyền nhân dân nào đó” thành “nhằm thay đổi thể
chế chính trị, cơ chế kinh tế” – tức là thay đổi các vấn đề do Hiến pháp qui
định. Chính điều này đã dẫn đến sự mâu thuẫn.
3.
Có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong khi điều tra, truy
tố hoặc xét xử: Tại phiên tòa Sơ thẩm con tôi đã nhiều lần trình bày bị
truy bức nhục hình trong quá trình điều tra nên những chứng cứ bằng lời khai
tại cơ quan điều tra không đảm bào tính khách quan. Nhưng HĐXX sơ thẩm đã không
hề quan tâm xem xét đến ý kiến này của con tôi.
a.
Không chứng minh được diễn biến của hành vi phạm tội: Điều này đòi hỏi
chứng minh được người phạm tội đã chuẩn bị như thế nào, công cụ gây án là gì, gây
án bằng cách nào và cách đó làm sao tạo ra được hậu quả.
b.
Sử dụng các khái niệm không được luật hóa, không được định nghĩa một
cách rõ ràng để qui kết tội phạm: Phương thức “Bất bạo động”, âm mưu “Diễn biến
hòa bình” được nêu ở đây là gì và làm sao chúng có thể lật đổ được chính quyền
nhân dân nào đó. Bất bạo động, diễn biến hòa bình thì hoàn toàn chưa được luật
hóa tại bất kỳ văn bản luật nào của Việt Nam.
4.
Có những sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng Bộ luật hình sự:
Việc kết án không đúng điều luật vì những cơ sở để kết án hoàn toàn không đủ
bằng chứng dựa trên luật.
Khách thể của điều luật là không
có. Không có chính quyền nhân dân nào là đối tượng bị xâm hại. Cả hai Bản án Sơ
thẩm và Bản án Phúc thẩm đều không chỉ ra được chính quyền nhân dân nào mà con
tôi hành vi hướng đến lật đổ. Điều này cũng tương tự như một bản án kết tội ai
đó phạm tội giết người nhưng không hề đưa ra tên và mô tả người bị hại.
Thật bất công và oan cho con tôi khi những hành động bị quy
là “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” tựu trung chỉ là những đóng góp
thiết thực và xây dựng. Đến nay những dự báo và đóng góp đó đã minh chứng cho sự
nghiên cứu và nhận định của con tôi là chính xác. Việc cuốn sách “Trần Huỳnh
Duy Thức và Con đường nào cho Việt Nam” đã là bằng chứng sống động và
hùng hồn nhất cho sự vô tội của con tôi. Ngay vào lúc này, sau gần 5 năm ở tù
một cách oan trái, con tôi vẫn tin tưởng vào pháp luật, vào tương lai của đất
nước, luôn lạc quan hướng về phía trước mà không hề oán trách. Và con tôi vẫn
luôn tin tưởng vào những việc mình làm, tin tưởng chúng sẽ được nhìn nhận một
cách đúng đắn. Con tôi chưa bao giờ mất đi lòng tin vào những điều tốt đẹp
trong suốt gần 5 năm qua.
Qua những gì đã trình bày như trên, tôi thấy hoàn toàn có đủ
cơ sở pháp lý để đưa vụ án này ra xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm để trả
lại sự vô tội cho con tôi. Kể từ phiên tòa Phúc thẩm, gia đình tôi đã nghiên cứu
rất kỹ lưỡng, với tinh thần trách nhiệm cao không chỉ đối với con tôi mà còn
đối với pháp luật và đất nước. Gia đình tôi thấy rõ, một cách đúng pháp luật,
những việc làm của con tôi không vi phạm pháp luật. Không những vậy, đó còn là
những việc làm đáng trân trọng.
Ngày 23 và 24/12/2013 vừa qua, Chủ tịch nước (CTN) đã làm
việc với TANDTC và VKSNDTC. Tôi nhận thấy chủ đề tập trung chính của CTN với
hai nơi này trong năm nay là chống oan sai, nhất là nâng cao hiệu quả giải
quyết các đơn đề nghị tái thẩm, giám đốc thẩm. CTN nhấn mạnh như vậy và khẳng định
rằng Tòa Án phải thực sự mang lại công lý và chỉ bảo vệ công lý. Đây là nguyên
tắc rất đúng đắn và sáng suốt về pháp quyền. Điều này sẽ ngăn cản các cơ quan
tư pháp viện dẫn bảo vệ những mục tiêu ngoài pháp luật quy định.
Vì tất cả những lẽ trên, bằng đơn này tôi chính thức yêu cầu
ông Viện trưởng VKSNDTC và ông Chánh án TANDTC xem xét lại vụ án này theo thủ
tục giám đốc thẩm.
Kính thưa quý vị
Tôi xin được gửi đơn này đến tất cả quý vị với tư cách là
những người đứng đầu Cơ quan quyền lực cao nhất nước – nơi làm ra những bộ luật
bảo vệ nhân dân, đất nước; và thi hành cũng như giám sát việc thực hiện luật pháp.
Kính mong quý vị bằng vào quyền hạn và trách nhiệm của mình xem xét và làm
những gì cần thiết để giúp con tôi được xét xử Giám đốc thẩm vụ án này đúng
theo luật định.
Xin trân trọng cảm ơn.
Dù trong tù nhưng con tôi luôn động viên tôi và gia đình,
cho rằng những vấn đề mà con tôi gặp phải trong vụ án này cũng là bình thường
trong quá trình phát triển của đất nước. Con tôi luôn tin tưởng rằng vấn đề sẽ được
nhanh chóng làm sáng tỏ, không chỉ với con tôi mà còn đối với việc thực thi
pháp luật của đất nước. Thông điệp đầu năm của Thủ tướng chính phủ có nêu ra: ”Người
dân có quyền làm tất cả những gì pháp luật không cấm và sử dụng pháp luật để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Cơ quan nhà nước và cán bộ, công
chức chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép”. Điều đó cho thấy việc
tôn trọng quyền con người và khẳng định quyền làm chủ của nhân dân được đưa ra
để giải quyết các vấn đề của đất nước dựa trên Hiến pháp 2013. Chúng ta phải
tôn trọng cơ sở này. Nên khi bác đơn đề nghị giám đốc thẩm vụ án, tôi đề nghị
phải dựa trên luật và Hiến pháp 2013. Nhờ niềm tin đó mà tôi đã viết đơn này, và
cũng chính bằng niềm tin đó, để thể hiện niềm tin đó đến Quí Vị quan tâm giải
quyết vấn đề theo đúng pháp luật, đúng tinh thần Nhà nước pháp quyền – tinh
thần “của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” như tuyên bố tại Điều 2 Hiến pháp.
Tôi xin được kính đơn cũng bằng tinh thần và niềm tin như
vậy.
Xin trân trọng kính chào.
Đính kèm bản sao:
1. Đính kèm công văn số 4290/VKSTC-V3
v/v trả lời thư khiếu nại - ngày 28/11/2013
2. Bản án sơ thẩm số: 19/2010/HSST ngày 20/01/2010
3. Bản án phúc thẩm số: 254/2010/HSPT ngày 11/05/2010
|
Kính đơn,
Trần Văn Huỳnh
|
0 comments:
Đăng nhận xét