VRNs – Sài Gòn
Chiều hôm qua, tại hội trường
Giêrađô, nhà mục vụ DCCT, bài tham luận Việt Nam có tự do báo chí? của luật sư
Lê Công Định, tù nhân tư tưởng, đã được linh mục Hoàng Vũ công bố trong hội thảo
Tự do thông tin ở Việt Nam dưới ánh sáng giáo huấn xã hội Công giáo. Bài tham
luận được tất cả các tham dự viên tán thưởng và đồng tình.
Việt Nam có tự do báo chí?
Thế nào là một nền báo chí tự do và độc lập?
Một nền báo chí tự do và độc lập thực sự là thành tố quan
trọng của một xã hội tự do. Sẽ không có xã hội tự do nếu báo chí chưa độc lập
khỏi chính quyền. Luật lệ về báo chí
giúp thiết đặt những quy tắc bảo đảm sự tự do và độc lập đó, chứ không phải là
phương tiện để chính quyền kiểm soát và áp đặt quan điểm của mình về nội dung
thông tin, cũng như cách thức đưa tin và bình luận các sự kiện kinh tế, chính
trị và xã hội.
Thông tin cung cấp cho công chúng không phải là những sản
phẩm đã được nhào nặn và định hướng cách hiểu từ bất cứ ai và thế lực nào. Tất
nhiên không tránh được sự thiên vị và suy nghĩ chủ quan của người cầm bút và chủ
bút một tờ báo khi xử lý và đưa tin. Vai
trò của luật lệ về báo chí do vậy là thiết lập một hệ thống quy tắc đạo đức nghề
nghiệp của nhà báo nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân và tổ
chức trong xã hội.
Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo không đồng nghĩa với
trách nhiệm đưa tin theo ý chí của chính quyền hoặc quan chức. Một khi tuân thủ đạo đức nghề nghiệp, nhà báo
không phải sợ hãi khi thông tin mình đã đưa trái với “định hướng” hoặc đụng chạm
đến cơ quan công quyền dù ở cấp nào, bởi lẽ vai trò mặc nhiên của báo chí là
đưa tin và chính quyền phải tôn trọng điều đó.
Sự thật là tiêu chí tối thượng của một nền báo chí tự do
và độc lập cho dù nhà báo và tờ báo phải trả giá thế nào để bảo vệ sự thật mà
mình biết. Nhà báo phải xác minh sự thật và đưa tin về điều đó. Báo chí không bao giờ được phép đưa tin sai sự
thật khi biết rõ đâu là sự thật. Đấy
chính là trách nhiệm quan trọng nhất của báo giới.
Vậy, với quan niệm phổ biến như vậy, liệu Việt Nam thực sự
có tự do báo chí? Hỏi tức là trả lời.
Ai giám sát báo chí?
Khác với cách hiểu lâu nay ở Việt Nam, việc giám sát báo
chí không phải của chính quyền, mà của chính báo giới và độc giả.
Như đã nói trên, nhà báo phải tuân thủ các quy tắc đạo đức
nghề nghiệp được ấn định bởi luật pháp và quy tắc riêng của một tờ báo. Có thể nói, đạo đức nghề nghiệp là cơ chế
giám sát tối cao hoạt động báo chí. Cũng
như nghề luật sư, những quy tắc đạo đức nghề nghiệp chủ yếu giúp giải quyết vấn
đề xung đột lợi ích tài chính hay các phân tranh lợi ích khác. Mọi thiên vị dưới áp lực của tiền bạc hay quyền
lực đều bị cấm đoán.
Ngoài ra, độc giả sẽ dựa vào tiêu chí sự thật để đặt lòng
tin vào một tờ báo, qua đó giám sát cách thức đưa tin và bình luận các sự kiện
kinh tế, chính trị và xã hội của tờ báo.
Bình luận sự kiện có thể thế này thế kia, tùy thuộc vào kinh nghiệm và
kiến thức của nhà báo, nhưng cố tình bỏ sót, bịa đặt hoặc bóp méo sự kiện thực
tế sẽ bị độc giả xét đoán nghiêm khắc.
Sự tự do và độc lập của báo chí không cho phép bất kỳ sự
kiểm duyệt vô lý nào từ phía chính quyền dù dưới danh nghĩa thiết lập và duy
trì ổn định trật tự xã hội. Mọi sự ngụy
biện nhằm áp đặt sự kiểm soát tùy tiện như vậy trên thực tế sẽ thủ tiêu một nền
báo chí tự do và độc lập như có thể thấy ở những thể chế độc tài và toàn trị.
Chính quyền thường lập luận rằng báo chí không bao giờ được
phép đặt mình cao hơn pháp luật. Có vẻ
đúng, nhưng đó là “pháp luật” gì? Xin
thưa, đó là loại “pháp luật” được đặt ra theo hướng che đậy và cho phép sự can
thiệp của nhà cầm quyền vào hoạt động báo chí.
Tất nhiên, mỗi nước có quy tắc pháp lý và đạo đức khác nhau, song điều đó
không có nghĩa rằng nhà cầm quyền tại một nước có quyền phớt lờ những chuẩn mực
văn minh chung được toàn thế giới công nhận để biện minh cho sự kiểm duyệt báo
chí một cách võ đoán của mình nhân danh luật pháp và trật tự công.
Giáo sư Jane Kirtley (người Mỹ) đã viết: “Một nền báo chí
tự do cũng có thể có khiếm khuyết và đôi khi không đáp ứng được hết những gì
người ta kỳ vọng về nó. Nhưng những nền dân chủ đang phát triển khắp thế giới vẫn
hàng ngày chứng tỏ rằng họ có đủ dũng khí và tự tin để chọn sự hiểu biết hơn là
ngu dốt, chọn sự thật hơn là những thông tin tuyên truyền, bằng cách chấp nhận
và áp dụng lý tưởng về báo chí tự do. Sống
với tự do báo chí không dễ. Nhưng tôi biết rằng tôi sẽ không thể sống nếu không
có điều đó.”
Luật pháp quốc tế và quốc gia về tự do ngôn luận và tự do
báo chí
Nền tảng của một nền báo chí tự do và độc lập là quyền tự
do ngôn luận của công dân. Quyền tự do
ngôn luận là một quyền hiển nhiên của những ai có tư cách làm người, được hiến
pháp quốc gia công nhận và ghi nhận, chứ không phải được ban phát. Khác với Việt Nam, luật pháp các nước dân chủ
nghiêm cấm quốc hội hay chính quyền thông qua các đạo luật hay đặt ra các quy định
hạn chế hoặc vi phạm tự do ngôn luận và tự do báo chí, dù dưới hình thức công
nhiên hay ngụy trang nào.
Tuyên ngôn Toàn cầu về Nhân quyền của Đại hội đồng Liên hợp
quốc năm 1948 đã khẳng định như sau tại Điều 19: “Mọi người đều có quyền tự do
có chính kiến và tự do ngôn luận; quyền này bao gồm tự do giữ các quan điểm mà
không bị can thiệp, tự do tìm kiếm, tiếp nhận và chia sẻ thông tin và ý tưởng
thông qua bất kỳ phương tiện truyền thông nào và không bị giới hạn.”
Điều 10 của Công ước Châu Âu về Nhân quyền ghi nhận: “Mọi
người đều có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm quyền tự do được giữ các
quan điểm, tiếp nhận và chia sẻ thông tin mà không bị can thiệp bởi chính quyền
và không bị giới hạn. […]”
Ngoài ra, Công ước Châu Âu về Nhân quyền còn nêu rõ: “Việc
thực hiện các quyền tự do này, do chúng bao hàm cả quyền lợi và nghĩa vụ, có thể
phải chịu sự chi phối của các thủ tục, điều kiện, hạn chế hoặc hình phạt do luật
pháp quy định và là điều cần thiết trong một xã hội dân chủ, vì lợi ích an ninh
quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, hay an toàn xã hội, nhằm ngăn ngừa tội phạm, mất
trật tự xã hội, nhằm bảo vệ sức khỏe, tinh thần, bảo vệ thanh danh hay quyền của
những người khác, nhằm ngăn ngừa việc phát tán thông tin mật, bảo đảm thẩm quyền
và tính không thiên vị của ngành tư pháp.”
Như vậy, luật pháp quốc tế bảo đảm quyền tự do ngôn luận
dù cũng thừa nhận một số cơ sở pháp lý để nhà nước hạn chế tự do ngôn luận nhằm
bảo vệ các lợi ích xã hội và cá nhân chính đáng.
Nhiều công ước, hiệp ước và tài liệu quốc tế khác đều
công nhận tương tự về quyền tự do ngôn luận, đặc biệt là Công ước Quốc tế về
Quyền Dân sự và Chính trị. Dù có thể
khác nhau về ngôn ngữ cụ thể song tất cả đều thừa nhận tự do ngôn luận là quyền
cơ bản của con người.
Hiến pháp của các quốc gia cũng công nhận quyền tự do
ngôn luận. Chẳng hạn, Điều 25 của Hiến
pháp Vương quốc Bỉ năm 1831 ghi rõ: “Báo chí được tự do; không bao giờ được thiết
lập sự kiểm duyệt nào; không được yêu cầu an ninh từ các tác giả, các nhà xuất
bản và các nhà in. Khi tác giả của một tác phẩm báo chí được biết rõ và đang cư
trú ở Bỉ, không được truy tố nhà xuất bản, nhà in hay nhà phát hành.”
Luật pháp quốc tế và quốc gia về tự do thông tin
Bên cạnh tự do ngôn luận, các công ước, hiệp ước và tài
liệu quốc tế cũng công nhận tự do thông tin như là quyền cơ bản của con người. Tự do thông tin là quyền hợp hiến tại khoảng
80 quốc gia trên thế giới. Tất nhiên, tại nhiều nước, đặc biệt là Việt Nam, các
nhà báo vẫn gặp khó khăn trong việc thực hiện quyền tự do thông tin của mình.
Luật Báo chí Thụy Điển năm 1766 được xem là bộ luật đầu
tiên về tự do thông tin. Nhiều nền dân
chủ đang phát triển ở Đông Âu và Mỹ châu La Tinh cũng đưa quyền tự do thông tin
vào hiến pháp của mình.
Cũng như ở hầu hết các nước trên thế giới, tại Mỹ mọi
công dân đều có thể yêu cầu tiếp cận thông tin theo Đạo luật Tự do Thông tin
năm 1966, theo đó mọi người trên thế giới đều có quyền truy cập thông tin tại Mỹ
theo luật pháp Mỹ, mà không cần phải là công dân Mỹ hay thường trú nhân ở Mỹ.
Tất nhiên, dù công nhận quyền tự do thông tin, luật về tự
do thông tin tại các quốc gia đều ấn định các trường hợp ngoại lệ, theo đó một
số loại thông tin mật không thể công bố rộng rãi. Chẳng hạn, những thông tin
liên quan đến đời sống riêng tư của người khác thuộc loại mật mà báo chí phải
tôn trọng.
Luật pháp Việt Nam về tự do ngôn luận, tự do báo chí và tự
do thông tin
Hiến pháp Việt Nam năm 2013 quy định tại Điều 25 rằng:
“Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp,
lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.” (Nhấn
mạnh phần gạch chân)
Tuy nhiên, hành xử thực tế của chính quyền thường lệch lạc
so với những tuyên bố hoa mỹ. Nhà nước
Việt Nam thường bào chữa cho việc áp dụng những nguyên tắc quốc tế theo cách
riêng của mình nhằm hạn chế quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí. Tuy vẫn dẫn
chiếu những điều khoản trong các công ước, hiệp ước và tài liệu quốc tế khác mà
Việt Nam tham gia ký kết, nhưng họ luôn tìm cách giải thích theo ý riêng và tự
đặt ra những quy định hạn chế và tước đoạt các quyền của người dân theo những
điều ước quốc tế đó.
Quả thật, câu cuối của Điều 25 Hiến pháp Việt Nam năm
2013 (ghi rằng “việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”) là minh chứng
cho cách sử dụng những quy định luật pháp, dưới Hiến Pháp, để hạn chế và tước
đoạt quyền tự do ngôn luận của công dân.
Tệ hại hơn, Bộ Luật Hình Sự Việt Nam, đặc biệt là các Điều
88 (quy định về “Tội tuyên truyền chống Nhà nước Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam”),
Điều 258 (quy định “Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của
Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”), Điều 263 (quy định về
“Tội cố ý làm lộ bí mật Nhà nước”) và Điều 264 (quy định về “Tội vô ý làm lộ bí
mật Nhà nước”), từ nhiều năm nay được sử dụng làm công cụ pháp lý để chính quyền
bắt giam những ai công khai thực thi quyền tự do ngôn luận của mình bằng cách
đưa và bình luận các tin tức mà chính quyền không muốn công chúng biết.
Mặt khác, luật tiếp cận thông tin vẫn chưa có nên dự án
luật đang được Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo và có thể được trình vào năm
2016. Tuy nhiên, một văn kiện pháp quy
là Nghị Định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 được Chính phủ ban hành năm vừa rồi
đã bị chỉ trích kịch liệt bởi dư luận trong và ngoài nước, bởi đó là văn kiện
pháp lý đầu tiên công khai ấn định những rào cản đối với quyền trao đổi và tiếp
cận thông tin của mọi thành phần trong xã hội.
Kết luận
Bài xã luận mang tựa đề “Điều trần … một phía, làm sao
khách quan?” đăng trên báo Quân đội Nhân dân Online số Chủ nhật, ngày
27/04/2014, có đoạn viết: “Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiếp
tục khẳng định, mở rộng hơn quyền tự do báo chí. Xét cả về số lượng và chất lượng,
Việt Nam đang có một nền báo chí phát triển và thực hiện tốt tự do báo chí.”
Quả thật, các bản Hiến pháp Việt Nam trải qua các thời kỳ
đều ghi nhận quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí. Tuy nhiên, điều đó chỉ có ý nghĩa nếu nhà cầm
quyền thực tâm tôn trọng quyền hiến định này mà không cố tình tạo ra những giới
hạn về phương diện pháp lý nhân danh “an ninh quốc gia” (mà kỳ thực là an ninh
của đảng cầm quyền).
Số lượng tờ báo trên cả nước hoàn toàn không có giá trị
gì khi tất cả đều chỉ đưa tìn theo định hướng của chính quyền. Biện minh về tự do báo chí nếu chỉ dựa trên số
lượng và chất lượng các tờ báo, thì đơn thuần là sự ngụy biện không hơn không
kém. Vấn đề chính của quyền tự do ngôn
luận là người dân có được tự do “mở miệng” mà không bị bộ máy công an quấy nhiễu
hay không mà thôi.
Lê Công Định, tù nhân tư tưởng
DienDanCTM
nguồn:http://www.chuacuuthe.com/2014/05/viet-nam-co-tu-do-bao-chi/
DienDanCTM
nguồn:http://www.chuacuuthe.com/2014/05/viet-nam-co-tu-do-bao-chi/
0 comments:
Đăng nhận xét