Chuyện “ Màu tím hoa sim” của nhà thơ Hữu Loan.

Bảo Nam

Nguyễn Hữu Loan (Hữu Loan) sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy học ở nhà . Cha Hữu Loan (HL) tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. Tuy học chắp vá, nhưng thừa hưởng sự thông minh của cha, HL. bước lên bậc trung học, theo ban thành chung ra học tại Thanh Hoá, tại quê nhà vì  không có tiền vào Huế hoặc ra Hà Nội học.  Năm 1938, lúc đó cũng đã  ngoài 20 tuổi, ông ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai.,không màng dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khoá ấy, trong đó có Nguyễn Đình Thi, Hồ Trọng Gin, Trịnh văn Xuấn, Đỗ Thiện  …

Với mảnh bằng tú tài Tây trong tay, Hữu Loan rời quê nhà lên Thanh Hoá để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của HL. được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai.
Bà là vợ của  ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khoá đầu tiên. Thấy HL. thường xuyên xem sách, báo bà tham Kỳ càng quý trọng xem  như người nhà. HL còn nhớ ngày đầu tiên  khoác áo gia sư, bà gọi đứa con gái mới 8 tuổi ỏn ẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí : ‘ Em chào thầy ạ’. Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào thầy. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào tâm trí, theo HL suốt cả cuộc đời. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu ấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một ‘bà cụ non’. Đặc biệt em chăm sóc thầy hằng ngày một cách kín đáo, mâm cơm lúc vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn . Những buổi trưa hè, nhằm lúc thầy ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng treo ở góc nhà mang ra giếng giặt …
 

Có lần HL. kể chuyện « bà cụ non » ít nói cho 2 người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận ! Suốt một tuần liền em nằm lì trong buồng, không chịu học hành … Một hôm, bà tham Kỳ dẫn HL vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy HL  đã nói rất nhiều, đã kể chuyện, đọc thơ cho em nghe … Chừng mấy giờ sau, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi thầy đưa lên khu rừng thông chơi. Cả nhà không ai đồng ý . Em không chịu, nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi HL đánh bạo xin phép ông bà tham Kỳ đưa em lên núi chơi.
 

Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc, thầy đuổi theo muốn đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo HL ngồi xuống bên em.Cả hai ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn thầy, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời, hỏi :
- Thầy có thích ăn sim không ?
Chưa dứt lời em đứng lên đi nhanh xuống sườn đồi. Trong chốc lát em đã trở lại ngồi bên thầy với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen láy chín mọng.
- Thầy ăn đi.
 

HL. cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm trồ : « Ngọt quá ».
 Sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, vùng trung du, quả sim chẳng lạ lẫm gì, nhưng HL chưa bao giờ ăn những quả sim ngọt đến thế. Cả hai ăn hết quả sim này đến quả sim khác. Em nhìn thầy cười, thầy nhìn em cười. Hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai má em đỏ tím một màu sim. Cái ngọt ngào của tình yêu chớm nở lan tỏa, sau này lóe lên chỉ trong chốc lát để rồi đau thường ập xuống. Số phận hay thế thái nhân tình gây nên ?
 

Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn, can thiệp của ông bà tham Kỳ, HL lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn thầy, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. HL đi lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng, em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy. HL vẫy trả và lầm lũi đi …Lên đến đầu chân đê quay đầu nhìn lại, em vẫn đứng yên đó, xung quanh đồi sim tím rào rào gió thổi…
 

Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng HL vẫn được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đến ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ …

Chín năm sau, HL về huyện Nông Cống tìm em. Hôm gặp nhau ở đầu làng, HL hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn, lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn là cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp …
 

Yêu nhau lắm nhưng HL vẫn lo sợ hai gia đình không môn đăng hộ đối  chút nào. Mãi sau này mới biết việc hợp hôn thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm sắp xếp.
 

Một tuần sau đó, thầy và em kết hôn. HL bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng  :’yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả’. HL cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay … lại đẹp trai nên em thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long, huyện Nông Công, tỉnh Thanh Hoá của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai người hạnh phúc hơn bao giờ hết. !
 

Hai tuần phép trôi qua thật nhanh, HL phải tức tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ. Hôm tiễn chồng lên đường, Em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ giờ em không còn cô bé Ninh nữa, mà là người vợ yêu quý của nhà thơ. HL bước đi, rồi quay đầu nhìn lại … Nếu như 9 năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mát thì lần này, nhà thơ thật sự đau buồn, đôi chân  như muốn khuỵu xuống.

Ba tháng sau, nhà thơ  nhận được tin dữ : vợ trẻ qua đời ! Em chết thật thảm thương : Hôm đó là ngày 25/05 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối ! Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của nhà thơ người bạn lòng tri kỷ, để lại nỗi đau không gì bù đắp nổi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sau thẳm trong trái tim của nhà thơ …

HL. phải giấu kín nỗi đau trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Nhà thơ như một cái xác không hồn … Dường như càng kìm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng nhà thơ được bung ra. Khi ấy đơn vịi đang đóng quân ở Nghệ An, nhà thơ ngồi lặng đi ở đầu làng, để mặc hai mắt đẫm nước, tay ghi chép. Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra :

Hữu Loan và vợ- Phạm Thị Nhu


Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng có em chưa biết nói
Khi tóc nàng đang xanh …
… Tôi về không gặp nàng …

Về viếng mộ nàng, HL dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hoá … Anh bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh. Đó là bài thơ “Màu Tím Hoa Sim”. Đây là bài thơ suốt năm tháng đi lính, ai cũng trộm chép lại, đọc cho nhau nghe, sinh viên, học sinh  phần lớn đều biết đến. Sự cấm đoán rất nghiêm ngặt của nhà nước Việt Nam lúc bấy giờ về bài thơ đầy rung động không sao ngăn cản được. Nó đã bay qua không gian, thời gian, không phân biệt “Ta, địch”.
 

 Sinh ngày 02/04/1916, ở huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hoá, nhà thơ tự sự:
“Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay, nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi viết mới nổi những câu :
 

“Chiều hành quân, qua những đồi sim
Những đồi sim, những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt
Và chiều hoang tím có chiều hoang biếc
Chiều hoang tim tím thêm màu da diết”…

“Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội, từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Mặc kệ ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi quá ! với lại tôi cũng chán ngấy bọn họ quá rồi “.
 

Năm 1955-1956, khi phong trào văn nghệ sĩ bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống chính sách độc tài, đồng thời chống những kẻ bồi bút cam tâm lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca ngợi cái này cái nọ để kiếm chút cơm thừa canh cặn. Làm thơ phải có cái tâm thật thiêng liêng thì thơ mới hay. Thơ hay thì sống mãi. Làm thơ mà không có tình, có tâm thì chả ra gì ! vậy mà làm thơ lúc bấy giờ khối kẻ cứ  ca tụng, trong khi đó HL lại đề cao tình yêu. Nhà thơ khóc người vợ yêu thương của mình, người bạn đời hiếm có của mình. Thế mà họ cho thơ “Màu tím hoa sim” là khóc cái tình cảm riêng, mất hết tinh thần chiến đấu…  Họ cho nhà thơ phản động. HL. đã có lần phải gào lên như con thú bị thương. “ Tôi khóc, làm thơ về vợ yêu thương của tôi chết non trẻ oan uổng, tôi phản động  chỗ nào ? Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu quý, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan, về nhà để đi cày”. Họ (theo cách gọi của nhà thơ) không cho bỏ đảng, bắt  phải làm đơn xin. HL. không xin, chán, muốn bỏ là bỏ, không ai bắt được ! HL. về quê đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. “Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có 2 cái càng ở phía sau để đủn hay kéo. Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai tôi, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu cũng có công an theo dõi, cho người hại tôi … Nhưng lúc nào cũng có người cứu tôi ! Có một cái lạ là thơ của tôi đã có lần cứu sống tôi ! Lần đó tên công an mật nói thật với tôi là nó được giao lệnh giết tôi, nhưng nó sinh ở Yên Mô, thường đem bài Yên Mô của tôi nói về tỉnh Yên Bình quê nó ra đọc cho đỡ nhớ, vì vậy nó không nỡ giết tôi”
 

Thời gian đau khổ trôi đi. Định mệnh đưa đẩy, dắt nhà thơ đến với một phụ nữ khác, sống cùng nhau mãi cuối đời. Đó là cô Phạm Thị Nhu, một phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ năm 1954-1955. HL. kể
 

“Lúc đó còn là chính trị viên của tiểu đoàn, tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học, lại có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy chán nản quá, không còn hăng hái nữa. Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia đình địa chủ rất giàu, nắm trong tay gần 500 mẫu ruộng.
 

Trước đây, ông địa chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước. Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn, nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chỗ đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng phòng tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông. Thế rồi, một hôm, Tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố . Hai vợ chồng ông bị đội cải cách phát động quần chúng đem ra cho dân xỉ vả, rồi chôn xuống đất, chỉ để hở hai cái đầu lên. Xong họ cho trâu kéo bừa đi qua đi lại 2 cái đầu đó, cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị  đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách. Tàn nhẫn hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó, cán bộ cấm đoán dân chúng cả việc lấy con cái địa chủ làm vợ làm chồng.
 

Biết chuyện thảm thương của gia đình ông bà địa chủ tôi hằng nhớ ơn, tôi trở về xã đó xem cô con gái họ sinh sống ra sao vì trước kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ, nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn”.

Rồi HL cũng  gặp được cô ta, áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom nhặt những củ khoai mà dân bỏ sót, nhét vào túi áo, chùi vội một củ rồi đưa lên miệng gặm, nhai ngốn nghiến vì đói. Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, nhà thơ đến gần  hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi ; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói.
 

Nhà thơ quyết định đem cô về làng, bất chấp lệnh cấm, lấy cô Phạm Thị Nhu làm vợ..Quê nhà thơ nghèo, lúc đó HL còn ở trong bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó, bữa đói bữa no … Cho đến bây giờ vợ chồng đã có 10 người con , 6 trai, 4 gái  và cháu nội ngoại hơn 30 đứa. !
 

Trong mấy chục năm dài, nhà thơ về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc giải sầu, lâu lâu nổi hứng lại làm thơ. Thế mà chúng vẫn trù dập, không chịu để  yên. Tới  lúc “mở cửa” nhà thơ được ve vãn, mời gia nhập Hội Nhà Văn, nhưng ông chẳng thèm.

Năm 1988, nhà thơ sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gíó. HL. lang bạt gần 1 năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức để đòi tự do sáng tác, tự do báo chí – xuất bản và đổi mới thực sự.

Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyền bài “Màu Tím Hoa Sim” của nhà thơ với gía 100 triệu đồng. Họ bảo, đó là một hình thức bảo tồn tài sản Văn hoá. HL. đồng ý. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90 triệu, chia « lộc » cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, nhà thơ giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi gìa, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan.
Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác nhưng HL. từ chối “ thơ tôi làm ra không phải để bán…”

Chuyện phía sau “Màu tím hoa sim” chưa hết nhưng xin dừng lại. Màu tím hoa sim bây giờ đã thành bài hát, bài hát thật thê lương,  nó cứ loang mãi, cháy mãi trong tình yêu đôi lứa, tình yêu quê hương, không chỉ một màu tím mà đỏ như máu đến cả mai sau.
Bảo Nam.
Tác giả gửi đến DienDanCTM

0 comments:

Đăng nhận xét

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites More