Trần Gia Phụng
1. Hiệp định
Genève
Danh
xưng chính thức đầy đủ của hiệp định Genève về Việt Nam là Hiệp định đình chỉ
chiến sự ở Việt Nam. Hiệp định nầy được viết bằng hai thứ tiếng Pháp và Việt,
có giá trị như nhau. Hai nhân vật chính ký vào hiệp định Genève là
HenriDelteil, thiếu tướng, thay mặt Tổng tư lệnh Quân đội Liên Hiệp Pháp ở Đông
Dương và Tạ Quang Bửu, thứ trưởng Bộ Quốc phòng chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa (VNDCCH tức Việt Minh cộng sản). Đại diện các nước khác cùng ký vào hiệp định
Genève còn có Anh, Liên Xô, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (Trung Cộng), Lào,
Cambodia. Chính phủ Quốc Gia Việt Nam (QGVN) và Hoa Kỳ không ký vào bản hiệp định
nầy.
Hiệp
định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam (gọi tắt là hiệp định Genève) gồm có 6
chương, 47 điều, trong đó các điều chính như sau:
Việt
Nam được chia thành hai vùng tập trung, ranh giới tạm thời từ cửa sông Bến Hải,
theo dòng sông, đến làng Bồ-Hô-Su và biên giới Lào Việt. [Cửa sông Bến Hải tức
Cửa Tùng, thuộc tỉnh Quảng Trị. Sông Bến Hải ở vĩ tuyến 17 nên người ta nói nước
Việt Nam được chia hai ở vĩ tuyến 17.] Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở phía bắc (tức
Bắc Việt Nam) và Quốc Gia Việt Nam ở phía nam (tức Nam Việt Nam). Dọc hai bên bờ
sông, thành lập một khu phi quân sự rộng 5 cây số mỗi bên, để làm "khu đệm",
có hiệu lực từ ngày 14-8-1954. Thời hạn tối đa để hai bên rút quân là 300 ngày
kể từ ngày hiệp định có hiệu lực. Cuộc ngưng bắn bắt đầu từ 8 giờ sáng ngày
27-7 ở Bắc Việt, 1-8 ở Trung Việt và 11-8 ở Nam Việt. Mỗi bên sẽ phụ trách tập
họp quân đội của mình và tự tổ chức nền hành chánh riêng. Cấm phá hủy trước khi
rút lui. Không được trả thù hay ngược đãi những người đã hợp tác với phía đối
phương. Trong thời gian 300 ngày, dân chúng được tự do di cư từ khu nầy sang
khu thuộc phía bên kia. Cấm đem thêm quân đội, vũ khí hoặc lập thêm căn cứ quân
sự mới. Tù binh và thường dân bị giữ, được phóng thích trong thời hạn 30 ngày,
kể từ khi thực sự ngừng bắn. Sự giám sát và kiểm soát thi hành hiệp định sẽ
giao cho một Uỷ ban Quốc tế. Thời hạn rút quân riêng cho từng khu vực kể từ
ngày ngừng bắn: Hà Nội (80 ngày), Hải Dương (100 ngày), Hải Phòng (300 ngày),
miền Nam Trung Việt (80 ngày), Đồng Tháp Mười (100 ngày), Cà Mau (200 ngày). Đợt
chót ở khu tập kết Trung Việt (300 ngày).
2. Ai vi phạm
hiệp đinh Genève
Hiệp
định Genève ký kết ngày 20-7-1954 chỉ là một hiệp định có tính cách thuần túy
quân sự. Cũng giống như hiệp ước đình chiến Panmunjom (Bàn Môn Điếm) ngày
27-7-1953 ở Triều Tiên, hiệp định Genève không phải là một hòa ước, và không
đưa ra một giải pháp chính trị nào cho tương lai Việt Nam.
Chính
phủ QGVN dưới quyền quốc trưởng Bảo Đại và thủ tướng Ngô Đình Diệm lo tập trung
và rút toàn bộ lực lượng của mình về miền Nam vĩ tuyền 17 đúng thời hạn và đúng
theo quy định của hiệp định. Điều nầy chẳng những báo chí lúc bấy giờ đã trình
bày, mà cho đến nay, chẳng có tài liệu sách vở nào cho thấy là chính phủ QGVN
đã gài người hay lưu quân ở lại đất Bắc. Như thế, trong việc thi hành hiệp định
Genève, chính phủ QGVN đã thi hành đúng đắn hiệp định.
Trái
lại, nhà nước VNDCCH do Việt Minh cộng sản cầm đầu đã không tuân hành quy định
trong hiệp định Genève. Sau đây là hai bằng chứng cụ thể do phía cộng sản đưa
ra về sau:
Thứ
nhứt, tại hội nghị Liễu Châu (Liuzhou) thuộc tỉnh Quảng
Tây (Kwangsi), giữa thủ tướng Trung Cộng Chu Ân Lai và chủ tịch nhà nước VNDCCH
Hồ Chí Minh từ ngày 3 đến ngày 5-7-1954, tức trước khi hiệp định Genève được ký
kết, Hồ Chí Minh đã đưa ra kế hoạch là sẽ chỉ rút những người làm công tác
chính trị bị lộ diện; phần còn lại thì ở lại để chờ đợi thời cơ nổi dậy. Số ở lại
có thể đến 10,000 người. (Tiền Giang, Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa hội nghị [Chu
Ân Lai và hội nghị Genève] Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005, bản
dịch của Dương Danh Dy, tựa đề là Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954,
chương 27 "Hội nghị Liễu Châu then chốt". Nguồn: Internet).
Thứ
hai, Việt
Minh cộng sản chẳng những chôn giấu võ khí, lưu 10,000 cán bộ, đảng viên ở lại
Nam Việt Nam, mà còn gài những cán bộ lãnh đạo cao cấp ở lại miền Nam như Lê Duẫn,
Võ Văn Kiệt, Mai Chí Thọ, Cao Đăng Chiếm... (Huy Đức,Bên thắng cuộc, tập I: Giải
phóng, New York: Osinbook, 2012, tt. 271-273), để chỉ huy Trung ương cục miền
Nam (TƯCMN). Trung ương cục miền Nam được thành lập ngày 20-1-1951, chỉ huy
toàn bộ hệ thống cộng sản ở Nam Việt Nam. (Tháng 10-1954, TƯCMN đổi thành Xứ ủy
Nam Bộ. Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành TƯĐ (khóa III) đảng LĐ (ngày
23-1-1961) ở Hà Nội, Xứ ủy Nam Bộ trở lại thành TƯCMN.)
Hai
tài liệu trên đây do phía cộng sản Việt Nam tiết lộ, chứ không phải tài liệu
tuyên truyền của NVN hay Tây Phương. Như vậy, rõ ràng trong khi chính phủ QGVN
tôn trọng hiệp định Genève, nhà nước VNDCCH đã có kế hoạch vi phạm hiệp định,
ngay khi trước khi hiệp định được ký kết và cả sau khi hiệp định được ký kết.
3. Bắc Việt
Nam đòi hỏi điều không có
Hiệp
định Genève chỉ là một hiệp định đình chiến, thuần túy quân sự và không đưa ra
một giải pháp chính trị. Trong khi chính Bắc Việt Nam (BVN) vi phạm hiệp định
Genève, thì ngày 19-7-1955, thủ tướng BVN là Phạm Văn Đồng gởi thư cho thủ tướng
Nam Việt Nam (NVN) là Ngô Đình Diệm yêu cầu mở hội nghị hiệp thương bắt đầu từ
ngày 20-7-1955, như đã quy định trong hiệp định Genève ngày 20-7-1954, để bàn về
việc tổng tuyển cử nhằm thống nhất đất nước. (John S.Bowman, The Vietnam War,
Day by Day, New York: The Maillard Press, 1989, tr. 17.) Ngày 10-8-1955, thủ tướng
Ngô Đình Diệm bác bỏ đề nghị của Phạm Văn Đồng, vì cho 1955 rằng chính phủ QGVN
tức NVM không ký các văn kiệnGenève nên không bị ràng buộc phải thi hành.
Tuy
sau đó chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), thay chính phủ QGVN, nhiều lần từ chối,
Phạm Văn Đồng vẫn nhắc lại đề nghị nầy hằng năm vào các ngày 11-5-1956,
18-7-1957, và 7-3-1958, để chứng tỏ BVN quan tâm đến chuyện thống nhứt đất nước,
và nhằm tuyên truyền với các nước trên thế giới. Lần cuối, Ngô Đình Diệm, lúc
đó là tổng thống VNCH, bác bỏ đề nghị của Phạm Văn Đồng vào ngày 26-4-1958.
Một
điều lạ lùng là trong hiệp định Genève, không có một điều khoản nào nói đến việc
tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất đất nước mà nhà cầm quyền CS cứ nhất định
đòi hỏi tổ chức tổng tuyển cử theo hiệp định Genève. Thật ra, sau khi hiệp định
về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, ở Lào và ở Cambodia được ký kết, các phái đoàn
tham dự hội nghị Genèvehọp tiếp vào ngày 21-7-1954, nhằm bàn thảo bản
"Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở
Đông Dương". Bản tuyên bố gồm 13 điều; quan trọng nhất là điều 7, ghi rằng:
"Hội
nghị tuyên bố rằng đối với Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị thực
hiện trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ,
sẽ phải làm cho nhân dân Việt Nam được hưởng những sự tự do căn bản, bảo đảm bởi
những tổ chức dân chủ thành lập sau tổng tuyển cử tự do và bỏ phiếu kín. Để cho
việc lập lại hòa bình tiến triển đến mức cần thiết cho nhân dân Việt Nam có thể
tự do bày tỏ ý nguyện, cuộc Tổng tuyển cử sẽ tổ chức vào tháng 7-1956 dưới sự
kiểm soát của một Ban Quốc tế gồm đại biểu những nước có chân trong Ban Giám
sát và Kiểm soát Quốc tế đã nói trong Hiệp định đình chỉ chiến sự. Kể từ ngày
20-7-1955 những nhà đương cục có thẩm quyền trong hai vùng sẽ có những cuộc gặp
gỡ để thương lượng về vấn đề đó." (Thế Nguyên, Diễm Châu, Đoàn Tường, Đông
Dương 1945-1973, Sài Gòn: Trình Bày, 1973, tr. 53. Xem bản Pháp văn của tuyên
ngôn nầy, vào: google.com.fr., chữ khóa: Déclaration finale de la Conférence de
Genève en 1954.)
Chủ
tịch phiên họp là Anthony Eden (ngoại trưởng Anh) hỏi từng phái đoàn, thì bảy
phái đoàn là Anh, Pháp, Liên Xô, CHNDTH, VNDCCH, Lào và Cambodge trả lời miệng
rằng "đồng ý". (Hoàng Cơ Thụy, Việt sử khảo luận, cuốn 5, Paris:Nxb.
Nam Á 2002, tr. 2642.) Tất cả bảy phái đoàn đều trả lời miệng chứ không có phái
đoàn nào ký tên vào bản tuyên bố, nghĩa là bản tuyên bố không có chữ ký.
Đây
chỉ là lời tuyên bố (déclaration) của những phái đoàn, có tính cách dự kiến một
cuộc tổng tuyển cử trong tương lai ở Việt Nam, không có chữ ký, thì chỉ có tính
cách gợi ý, hướng dẫn chứ không có tính cách cưỡng hành. Một văn kiện quốc tế
không có chữ ký thì làm sao có thể bắt buộc phải thi hành? Hơn nữa, những hiệp
định với đầy đủ chữ ký mà còn bị CSVN vi phạm trắng trợn, huống gì là bản tuyên
bố không chữ ký.
Phái
đoàn QGVN và phái đoàn Hoa Kỳ không ký vào hiệp định Genève ngày 20-7-1954 và
cũng không đồng ý bản "Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn
đề lập lại hòa bình ở Đông Dương" ngày 21-7-1954. Hai phái đoàn QGVN và
Hoa Kỳ đã đưa ra tuyên bố riêng của mỗi phái đoàn để minh định lập trường của
chính phủ mình.
4. Bắc Việt
Nam bịa đặt lý do để tấn công miền Nam
Cộng
sản BVN vi phạm hiệp định Genève ngay khi hiệp định nầy chưa được ký kết, nhưng
lại bịa đặt ra hai lý do để tấn công NVN: 1) Nam Việt Nam không tôn trọng hiệp
định Genève về việc tổ chức tổng tuyển cử thống nhất đất nước. 2) Nam Việt Nam
là tay sai đế quốc Mỹ nên BVN quyết định chống Mỹ cứu nước.
Về
lý do thứ nhứt, như trên đã viết, hiệp định Genève không đề cập đến giải pháp
chính trị tương lai cho Việt Nam. Giải pháp tổng tuyển cử nằm trong điều 7 của
bản "Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa
bình ở Đông Dương". Bản tuyên bố nầy lại không có chữ ký của bất cứ phái
đoàn nào, nên chỉ có tính cách khuyến cáo chứ không có tính cách bắt buộc phải
thi hành.
Lý
do thứ hai hoàn toàn có tính cách tưởng tượng vì sau năm 1954, Hoa Kỳ viện trợ
kinh tế cho Nam Việt Nam tái thiết đất nước, ổn định cuộc sống của dân chúng
sau chiến tranh, chứ Hoa Kỳ không viện trợ quân sự, chưa đem quân vào Việt Nam.
Nếu
để cho VNCH yên bình xây dựng kinh tế với sự trợ giúp của Hoa Kỳ, thì đến một lúc
nào đó chắc chắn VNCH với nền kinh tế tự do sẽ phát triển và vượt xa VNDCCH với
nền kinh tế chỉ huy theo đường lối cộng sản. Đó chính là điều mà VNDCCH thực sự
lo lắng.
Sự
giúp đỡ của Hoa Kỳ cho NVN chẳng những khiến BVN rất quan ngại, mà sự hiện diện
của người Hoa Kỳ tại NVN còn khiến cho cả Trung Cộng chẳng yên tâm.
Lúc
đó, Hoa Kỳ đang giúp Trung Hoa Dân Quốc bảo vệ Đài Loan (Taiwan), chống Trung Cộng.
Hoa Kỳ còn giúp bảo vệ Nam Triều Tiên và Nhật Bản, nên Trung Cộng mạnh mẽ chống
đối Hoa Kỳ chẳng những tại Đông Á, mà còn chống Hoa Kỳ khắp nơi trên thế giới,
hơn cả Liên Xô chống Hoa Kỳ. Nay người Hoa Kỳ lại có mặt ở NVN, gần sát với
Trung Cộng, nên Trung Cộng rất quan ngại cho an ninh phía nam của chính Trung Cộng.
Hơn
nữa, cho đến năm 1960 là năm BVN khởi động chiến tranh tấn công NVN, Hoa Kỳ chỉ
viện trợ kinh tế cho NVN chứ Hoa Kỳ không đem quân vào NVN. Chỉ sau khi BVN tấn
công và uy hiếp mạnh mẽ NVN, Hoa Kỳ mới đem quân vào giúp NVN năm 1965. Vì vậy,
chiêu bài “chống Mỹ cứu nước” năm 1960 là hoàn toàn hoang tưởng.
Như
thế, BVN cố tình đưa ra chiêu bài “chống Mỹ cứu nước” vừa để kêu gọi lòng yêu
nước của người Việt Nam vốn có tinh thần chống ngoại xâm, vừa để xin viện trợ cộng
sản quốc tế và thi hành nghĩa vụ quốc tế, như LêDuẫn đã từng nói “Ta đánh Mỹ là đánh cho cả
Trung Quốc, cho Liên Xô”. (Nguyễn Mạnh Cầm, ngoại trưởng CSVN từ 1991-2000, trả lời phỏng
vấn đài BBC ngày 24-1-2013.)
Kết luận
Hiệp
định Genève là hiệp định đình chỉ quân sự. Chính thể QGVN hay VNCH tức NVN đã
thi hành đúng hiệp định Genève, trong khi VNDCCH tức BVN liên tục vi phạm hiệp
định nầy. Do tham vọng quyền lực, do chủ trương bành trướng chủ nghĩa cộng sản
và do làm tay sai cho Liên Xô và Trung Cộng, VNDCCH tức BVN mở cuộc chiến từ
năm 1960, tấn công Việt Nam Cộng Hoà tức NVN dưới chiêu bài thống nhất đất nước
và chống Mỹ cứu nước.
Nhân
kỷ niệm 60 năm hiệp định Genève, xin ôn lại điều nầy để giới trẻ trong và ngoài
nước thấy rõ nguyên nhân của cuộc chiến 1960-1975, làm cho đất nước điêu tàn và
khoảng 3 triệu người Việt tử vong, xuất phát từ VNDCCH hay BVN do đảng Lao Động
hay đảng Cộng Sản Việt Nam điều khiển.
Điều
nầy càng làm sáng tỏ chính nghĩa của VNCH, cương quyết chống lại CSBVN, bảo vệ
nền tự do dân chủ ở NVN, chống lại sự xâm lăng của cộng sản và sự bành trướng của
chủ nghĩa cộng sản. Dầu thất bại, chính nghĩa tự do dân chủ của VNCH vẫn luôn
luôn sáng ngời và luôn luôn là mục tiêu tối hậu mà nhân dân Việt Nam hiện đang
cố gắng vươn tới.
(Toronto,
20-7-2014)
0 comments:
Đăng nhận xét